Giờ ăn trưa đã điểm.
Cũng như ngày đầu tiên trên tàu, Viêm ngồi ăn tại buồng lái, cùng Mộc Ma. Tuy các sĩ quan cấp cao thường ăn tại phòng lớn, nơi hôm nọ hai đứa dùng bữa, bình thường khi đang bay họ không rời vị trí, mà có người mang phần lên cho. Đế quốc đã phát triển hệ thống đặt đồ ăn đặc biệt trên tàu, theo đó người sĩ quan hay quân nhân trực ca có thể thông qua nó, chọn món mình muốn trong căn tin và xác nhận “đơn hàng”. Một người được giao nhiệm vụ sẽ mang phần lên, để đảm bảo những bộ phận quan trọng luôn có người túc trực.
Hiện tại, toàn hạm đội vẫn giữ đội hình kim cương ngược, bay thẳng về trước. Tới buổi cơm trưa, hầu hết thành viên tổ lái đều rời đi, hoặc có người thay ca, Mộc Ma bảo thế. Tuy nhiên, đối với cái tàu này, nhân lực hoàn toàn không đủ. Đó là lý do vì sao con bé thường ngồi xơi luôn trên này chứ không xuống dưới.
– Người lớn bỏ đi hết, chỉ còn tụi mình thôi!
Xúc đầy muỗng cơm cho vào miệng, bé chột nói. Trưa nay có cơm tấm với sườn nướng, đồ chua và dưa leo, ăn cùng canh cải bẹ xanh. Không cầu kỳ như những siêu du thuyền giàu nứt vách, Hồng Ma chỉ cho duy trì thực đơn tương tự với các tàu chiến khác. Động thái ấy của Tư lệnh Quân Đổ bộ ngầm nói rằng con tàu này vẫn bình đẳng với các đơn vị khác, vẫn thuộc về quân đội, không hề được đối đãi ưu tiên hơn. Mặt khác, điều này cũng vì để tiết kiệm chi phí. Phòng ăn quá lớn bên dưới được dự tính đủ sức chứa cho những năm mươi ngàn người, tức nuôi ăn cả một quân đoàn biên chế đủ, nhưng kỳ thực lại…
Vắng hoe!
Vừa ăn, Mộc Ma nói, con tàu này số người “sống” chỉ đếm trên đầu ngón tay. Không kể Viêm thì chỉ có ba người ỏ phòng lái, gồm nó, Masami với Hương Hương, cùng bốn Thượng tá phụ trách chuyên biệt. Bảy mạng, so với khu vực đảm bảo ít nhất một trăm ngàn suất ăn, mỗi người hai khay đầy ắp. Lãng phí? Nhỏ không nghĩ thế. Ban đầu tàu được dự tính sẽ gồm thủy thủ đoàn với ít nhất một phần ba là người sống, nhưng sau khi tính toán một hồi, nhận ra lượng nhân lực cần để đổ đầy cái “một phần ba” ấy còn đông hơn một tàu Định Quốc đầy đủ sĩ quan với thủy thủ, thì Giao Long dẹp luôn. Cô ta nhét kín tất cả với thi quỷ, chỉ trừ các bộ phận quan trọng nhất, như vùng điều hành, buồng đốt và chỗ này, do người sống chỉ đạo.
Bình thường, Hồng Ma “giám sát” toàn bộ mọi việc trên tàu, Oa Lân nắm quyền thực tế, còn Giao Long chỉ ngồi chơi xơi nước. Những lúc như giờ nghỉ trưa thế này, họ rời đi, nhưng không có nghĩa không biết. Đôi mắt của “Thi Hoàng”, đôi mắt nhìn thấy tất cả, vẫn luôn đảm bảo rằng không có chuyện gì bất thường xảy ra ở đây. Hồng Ma có thể hiện ra bất cứ khi nào, và ba chị gái thực ra cũng thường tụ tập ngoài hành lang chứ ít khi nào thực sự về phòng nghỉ. Tay lái được khóa cứng, giữ tàu đi theo hướng định trước, và chỉ thuyền trưởng với lái chính có chìa, việc phá nó để đổi chiều gần như bất khả thi. Trừ khi tác động trực tiếp tới các bánh lái phía sau, còn không Hồng Ma vẫn sẽ bay thẳng tắp một đường.
Vả lại, bây giờ còn có nhóm thi quỷ trực ban ở bên dưới nên yên tâm hơn hẳn.
Cùng ngồi ăn với nhau, Viêm cảm thấy vui cực kỳ. Khi còn ở nhà, nó chỉ có một mình. Tới bữa dọn đồ ăn ra, cũng chỉ bản thân tự gắp, tự ăn, nhiều lúc chén cơm chan nước mắt thay nước mắm. Cho cơm vào miệng nhai mà đắng nghét, nghẹn ứ lại, đồ ăn vô vị, và không gian im lặng như tờ, nhỏ chỉ muốn òa lên khóc. Cha đi nhậu triền miên, không thì cũng đá gà, bắn cá ở nhà bà mập ngoài đầu ngõ, chung với đám thanh niên xăm trổ. Tới như lễ, tết mà cha con trong nhà ăn chung một mâm chưa quá mười lần, toàn nghe “Tao ra ngoài, cơm nước mày nấu!” hay tương tự thế. Cũng chẳng có cái gì ngon lành, cơm canh thừa hâm lại vây thôi. Con bé khi ấy chín, mười tuổi đã phải tự vo gạo, rửa rau, nấu bếp rồi.
Những ký ức chẳng mấy đẹp đẽ ấy tự dưng ùa về, làm con bé bất giác ngừng muỗng. Nước mắt nó chực trào, nhưng chớp chớp mấy cái, nhỏ kìm hết vào trong. Nó không muốn phải nhớ lại hồi đó nữa, đã dứt áo ra đi rồi mà. Giao Long bảo, một khi mình rời khỏi, toàn bộ sự tồn tại của bản thân tại Trái đất sẽ biến mất. Sẽ không còn ai nhớ về nhỏ, về con bé còi cọc, ốm nhôm, mặc toàn quần áo cũ ngày ngày chạy bưng bê hủ tíu, tối về bị quát nạt, mắng chửi thua con ở nữa.
Bộp!
– Ớ?
Đang hồi tưởng, tự nhiên Viêm bị lôi về thực tại. Nhìn qua vai trái, tay Mộc Ma đang vịn thật chặt vào. Nó thấy bạn mình ngồi bên kia, mặt đỏ ửng. Đặt khay cơm xuống, Mộc Ma dụi dụi mắt, rồi nói:
– Dừng! Chuyện gì qua rồi cho nó qua! Mấy cái đó bỏ hết đi, nghe chưa!
– Nhưng…
– Bỏ! Cậu còn tớ mà! Mắc gì phải buồn…
– Ế?
– … chứ…
Tự nhiên hai đứa nhỏ đỏ hết mặt mày. Cúi xuống ăn cho xong phần cơm, chúng nó không dám nhìn nhau, cho đỡ thẹn.
Đưa hai khay đã sạch láng không còn một hột ra ngoài, Mộc Ma gọi người lên dọn chúng. Đoạn, nhỏ quay vào trong. Chỗ ban nãy chúng nó ngồi nằm sau chiếc ngai của Giao Long, nên che nắng rất tốt. Có lẽ “Thi Hoàng” tính cả rồi, cái lưng ghế cao gần ba thước đủ tạo thành bóng râm cho người nào đứng đằng sau, cũng như tạo thành nơi ngồi chơi phè phỡn tuyệt vời, không lo bị nắng rọi trực diện vào. Thật sự có phần bất công với cầu quan sát, nơi các thi quỷ phải vừa đeo cặp kính bảo hộ dày cộm, vừa kê sát mặt vô ống nhòm mà coi xung quanh, không được lơ là.
– Mà nè! – Viêm chợt nói – Nãy mẹ cậu có nói tớ nghe… ừm, mấy cái tàn tích gì của nền văn minh cổ ấy? Chúng có nhiều không?
– Đầy!
Mộc Ma trả lời tỉnh bơ!
– Không tính các di chỉ đã bị chìm hay phá hủy, Thủy Tinh còn sót lại không dưới trăm cái đâu! Nhất là mấy công trình bằng đá thời đó, cậu cứ phải gọi là bất tử luôn á!
– Nhiều vậy à? – Viêm trố mắt, kinh ngạc.
– Nè nha, từ sau Xích Quỷ tới trước chúng ta cũng phải sáu mươi cái thiên niên kỷ rồi! Cậu nghĩ từng ấy thời gian, với các chủng tộc còn sống sót sau đại hồng thủy, lại không thể tự xây dựng các vương quốc riêng à?
– Ể?
– Chán cậu quá…!
Ngả lưng ra sau, chống đôi bàn tay nhỏ nhắn xuống sàn kim loại, Mộc Ma nói lịch sử thế giới không đơn giản chỉ có đá, đồng, sắt và… hợp kim như người ta hay dạy. Nhỏ không biết Trái đất thế nào, nhưng Thủy Tinh đã trải qua hai chu kỳ như thế, tương ứng với hai thời kỳ nền văn minh toàn cầu phát triển tới cực thịnh. Thời đại đầu tiên, kéo dài từ một trăm hai mươi lăm ngàn tới sáu mươi lăm ngàn năm trước, được gọi với cái tên đầy kính trọng “Nền văn minh thứ nhất”, chính là thời cai trị của Đế quốc Xích Quỷ. Các bằng chứng về xã hội đồ đá, đồng thời đó đã được phát hiện, và được chính Hồng Ma xác nhận rằng vào thời của mình, họ đã xác định niên đại của chúng.
Nền văn minh thứ nhất chứng kiến sự trỗi dậy của tộc Xích Quỷ, một chủng yêu ma hùng mạnh nhưng dân số ít ỏi, bắt nguồn từ vùng châu thổ Đông Đô, mở rộng ảnh hưởng lên đến tận khu vực ngày nay là vùng Viễn Đông của Novgoroussiya, phía Đông Gaia đến quá nửa Valhöll, tiểu lục địa Gautama và thậm chí là vùng Đông Bắc của Afrikae. Khác với yêu quái của thời đại này chủ trương xây dựng quốc gia khởi thủy bằng việc bắt tay, thành lập các liên minh rồi sau đó thống nhất, Xích Quỷ, từ buổi bình minh, đã cai trị bằng nắm đấm thép. Xã hội họ quân sự hóa tuyệt đối, trẻ con được rèn luyện từ lúc lên sáu tuổi.
Đồng thời, thuở ấy long mạch Thủy Tinh còn mạnh, nên xuất hiện rất nhiều người tu luyện có công pháp vượt trội. Họ mạnh đến mức loài rồng hiện tại cũng không phải đối thủ, có thể tự thân bay ra vũ trụ, dịch chuyển tức thời hay thậm chí mở lối sang các thế giới khác. Xích Quỷ cũng đã phát triển khoa học kỹ thuật đến mức độ làm chủ năng lượng tối, chuẩn bị đóng các tàu cỡ lớn di chuyển nhanh hơn ánh sáng để thuộc địa hóa các hành tinh khác. Mặt trăng và một tinh cầu gần nơi này từng có các cơ sở nhân tạo trên bề mặt, có thể quan sát thấy bằng kính viễn vọng, chính là cơ sở tiền phương thời ấy.
Tuy nhiên, đại họa đã xảy ra. Mộc Ma nói, nó nghe mẹ kể lại, chính những kẻ tu luyện công pháp đã đụng tới long mạch, làm hư hại dòng chảy linh lực bên dưới hành tinh này, khiến khí hậu thay đổi đột ngột và hàng loạt thiên tai ập đến. Xét thời gian, Xích Quỷ hình thành vào cuối kỷ Băng hà, nên cũng “vô tình” trùng với lúc băng tan mạnh, khiến mực nước biển dâng cao bất thường. Các hoạt động công nghiệp càng khiến bầu khí quyển nóng lên, làm hai cực và băng trên núi tan nhanh hơn. Thảm họa tự nhiên liên miên, động đất, sóng thần, núi lửa rút cạn ngân khố, nên chương trình thám hiểm không gian bị bỏ xó. Các nhà máy năng lượng tối bị đóng cửa, xả toàn bộ phần dư thừa về lại vũ trụ. Lò phản ứng hồ quang phụ trợ ngừng hoạt động, rút tất cả những thanh nguyên liệu ra.
Trên hết, một cụm hai mươi lò phản ứng nhiệt hạch khổng lồ đặt tại núi Fugaku đồng loạt nổ tung, giải phóng lượng phóng xạ khổng lồ vào môi trường. Khu vực này lại nằm ngay trên Vành đai lửa, chuỗi núi lửa hoạt đông cực mạnh của Đại Đông Dương, nên hậu quả còn thảm khốc hơn gấp bội. Rất may khi đó các yêu quái Yamato đã hợp sức lại ngăn cản, và loài Jira tuyên bố khu vực đó là “nhà” của họ, nên tình hình được ổn định phần nào. Rồng đất Jira có khả năng sống trong môi trường phóng xạ cao gấp vài ngàn lần ngưỡng chết, cũng như hấp thụ và trung hòa chúng, nên họ không sao cả.
– Ớ, từ từ!
Nghe đến thế, Viêm chợt nói:
– Fugaku… không phải là nhà chị Masami sao? Vậy chả lẽ chỉ sống trên cái đống đó á?
– Ừ, đúng rồi! – Gật đầu, Mộc Ma trả lời tỉnh bơ – Tới giờ vẫn còn tàn tích của mấy cái nhà máy đó đó! Phóng xạ cũng bị tộc Jira hút hết rồi, nên giờ chỗ đó là khu du lịch sinh thái kiểu ở lại nhà dân, và cũng là điểm khảo cổ nữa!
– Nhưng… Thời ấy mà công nghệ tới vậy rồi á?
– Nè nha, mẹ tớ có thể bắn lý thuyết hạt tachyon cho cậu nổ não đó! Đừng có bao giờ coi thường người khác! Tồn tại trước chưa chắc dở hơn đâu, nhiều công nghệ hiện tại là nghiên cứu lại dựa theo di chỉ thời đó, như mấy cái động cơ tàu bay, golem ấy! Tớ nói nè, cái gì tụi mình hiện có thì trước đây họ cũng có, nhưng cái họ có chưa chắc mình có!
– Ví dụ như?
– Pháo đài xây trên Mặt trăng chả hạn!
Xích Quỷ sụp đổ, các tàn tích của họ cũng bị chôn vùi.
Tuy nhiên, vài trăm đến vài ngàn năm sau thảm họa hủy diệt đó, một số khu vực bắt đầu khởi sắc.
Có một lý do khiến vào thời cai trị của mình, Xích Quỷ tồn tại như thế lực hùng mạnh nhất, chính là vì họ đã thâu tóm nền chính trị, kinh tế của những lãnh thổ xung quanh. Thời kỳ ấy, có thể coi hầu như mọi quốc gia bé hơn đều là vệ tinh của siêu cường màu đỏ này. Đối với chính quốc, các Đế, người cai trị tối cao, rất coi trọng việc phát triển. Tuy nhiên, với tư tưởng lo ngại rằng những “chư hầu” xung quanh sẽ có ngày trở mặt, họ duy trì sự thống trị gần như tuyệt đối. Các phát minh mới, công pháp tu luyện tuyệt vời, nhà khoa học, nghệ nhân, pháp sư, yêu ma hùng mạnh,… đều bị đưa về đế quốc mà không chừa lại gì cho những vệ tinh. Chưa kể, việc ép buộc lệ thuộc kinh tế toàn diện và sẵn sàng tấn công bằng thuế quan khiến các chư hầu ngày một yếu kém. Mười tám đời Đế, kể cả Đế Hồng Ma, đều cai trị như vậy.
– Chơi kỳ vậy! – Viêm bất bình lên tiếng.
– “Đế quốc” mà, cậu mong gì?
Nhún vai, Mộc Ma nói:
– Tổ tiên nhà tớ chưa nuốt hết là may rồi!
– Dòng họ cậu…
– Thấy mẹ tớ chứ? Đế quốc quân phiệt điển hình đó!
Vì thế, dù rất nhiều năm trôi qua sau khi Hồng Ma chính thức tuyên bố thoái vị, Xích Quỷ tan rã và bị hủy diệt bởi các thảm họa bộ ba, bộ bốn, thì những vùng thuộc hạ cũ vẫn chưa thể ngóc đầu dậy ngay. Giáo dục các nơi đó vốn chỉ ở mức đủ thông minh để đi chợ, nền kinh tế lệ thuộc bị bóp nghẹt, chính trị yếu kém – vua chúa hoàn toàn bù nhìn, con rối nhảy múa trong tay các quan Toàn quyền Xích Quỷ. Chính vì bốn ngàn năm làm suy yếu tới cùng cực như thế, lại thêm thiên nhiên khi ấy quá khắc nghiệt, phải tận trăm, ngàn năm nữa, mới có vài ba quốc gia nổi lên được.
Dựa theo các di chỉ tìm thấy được, thì nhà nước hậu Xích Quỷ đầu tiên có tên gọi Éred al Khazard, nằm tại vùng núi cao phía Bắc Cộng hòa Nhân dân Turan ngày nay. Nơi ấy được thành lập bởi tộc Gjeen, những yêu ma khổng lồ đặc biệt giỏi làm việc với đá. Tòa thành duy nhất của họ còn sót lại, Éred Baorn, được xây vào núi Khazard, cũng có thể coi là nơi phát xuất của chủng tộc này. Người Gjeen hiện tại vẫn còn nhiều trên thế giới, tập trung chủ yếu tại cao nguyên Qaadta, trong các khu làng xây ngầm vào lòng núi như tổ tiên họ từng ở.
Thành cổ Éred Baorn được xây dựng cực kỳ công phu, với một vòng tường thành lớn bao phủ bên ngoài, được xác định có tên Éred al Ramessiy, dày khoảng mười thước, cao ba mươi thước bao phủ lấy toàn bộ vùng đồng bằng dưới chân núi Khazard, với di tích pháo đài Altäir được xây sau này nằm gọn bên trong. Mặt trước Éred Baorn giống như một lâu đài kiểu cổ, với các vách tường lớn, cổng chính khổng lồ làm từ đá núi, cùng hàng trăm những chiếc cột trụ giữ lấy hành lang đá bên trên, nơi có tường răng cưa và là khu vực phòng ngự chính. Hai bên thành là cặp tượng khổng lồ, thể hiện hình ảnh vua Nashaad I và vương hậu Dellyiah, tay mang giáo với khiên, những người đầu tiên thành lập Éred al Khazard. Bên trong vẫn đang được tìm hiểu, do người Gjeen coi thành cổ là vùng đất linh thiêng nên việc nghiên cứu khá chậm, phải liên tục xin phép và báo cáo với chính quyền địa phương.
“Nghe giống núi Cô Độc nhỉ?”, Viêm nghĩ bụng, “Chắc trùng hợp thôi?”
Lại tiếp, Mộc Ma kể, Éred al Khazard tồn tại khoảng một ngàn năm thì sụp đổ, do biến đổi khí hậu và chiến tranh. Dường như các tộc “mạnh” theo hướng thể chất, bẩm sinh đều phải chịu lời nguyền sinh ít. Dân số giảm mạnh do hàng chục năm gây chiến với những bộ lạc du mục vốn sống rải rác trên cao nguyên Qaadta, khiến lực lượng của họ dần bị bào mòn. Các bằng chứng khảo cổ còn chỉ ra rằng, trong khoảng sáu mươi ba tới sáu mươi hai ngàn năm trước, trùng với giai đoạn cuối của vương quốc, đã xảy ra một vụ hạn hán kinh hoàng. Các bảng khắc đá cũng ghi chép việc này, nắng hạn kéo dài khiến vật nuôi, cây trồng chết rũ, người dân cũng không ngoại lệ. Đói, khát, và mệt mỏi với những cuộc chiến, Gjeen bỏ vương quốc của mình, di cư xuống vùng đồng bằng phía dưới, nhưng không bao giờ có thể lấy lại sức mạnh ngày xưa nữa.
Các di chỉ của những nền văn minh khác còn lại khá nhiều, như quần thể phế tích Kim tự tháp Mặt trời ở phía Đông Bắc Hungollente. Được xác định niên đại vào khoảng ba mươi lăm tới ba mươi ngàn năm trước, nó là một trong những nền văn minh “thọ” nhất, có thê sánh ngang với Xích Quỷ. Vùng đất đó do tộc Viollente, một nhánh các ma cây, cai quản. Kim tự tháp của họ, xây bằng đá tảng và có dạng bậc thang rất rõ, nằm cao khỏi đồng bằng, đến nỗi bây giờ bị phủ cỏ lên khiến thiên hạ lầm tưởng là những quả đồi. Toàn bộ di tích gồm hơn hai mươi điện thờ, đền đài nguy nga, cùng dãy nhà ở lớn kéo dài trên những con đường lát đá, khiến các nhà khoa học phải ngã ngửa khi chứng kiến chúng.
Được cho là quốc gia hùng mạnh nhất vào thời của nó, ngang với mốc cuối của Kim tự tháp mặt trời, tức cách hiện tại tầm ba vạn năm, Vương quốc Lemürre ở lục địa nhỏ Mü ngoài khơi Nam Columbia khiến giới khảo cổ phải viết lại toàn bộ lịch sử. Khi được tìm thấy, nơi này có cả lò phản ứng hạt nhân, hơn hai ngàn máy ly tâm cùng các cơ sở chế tạo vũ khí khác. Niên đại của chúng làm ngay chính Hồng Ma cũng sốc, khi biết rằng ngoài Xích Quỷ, vẫn còn kẻ khác đủ khả năng tạo ra công nghệ hạt nhân riêng. Thậm chí lò phản ứng tìm được vẫn có thể vận hành tốt, chỉ có điều quá bụi bặm và dây leo chằng chịt nên sửa sang khá tốn kém.
Di tích còn sót lại của Lemürre hiện giờ rải rác trên ba quốc gia của Mü, với kinh đô R’léiya nằm sâu trong rừng, giữa một hệ thống các hồ điều tiết khổng lồ. Kiến trúc xây dựng kim tự tháp với ngôi đền bên trên được xác định có niên đại cách đây mười hai thiên niên kỷ, tức không thuộc về đất nước ấy, mà là một quốc gia “trẻ” hơn rất nhiều. Tuy nhiên, họ cũng tìm được những công trình chính xác thuộc về người Lemürre: Một tòa thành lớn bảy vòng tường, tuy đổ nát và bị rừng già bao phủ gần hết, vẫn có thể thấy được những vách đá khổng lồ và nhà cửa bên trong. Tại trung tâm của nó, cung điện hoàng gia – hay bất cứ thứ gì như vậy – vươn cao hơn sáu trăm thước, sừng sững giữa trời. Người dân xung quanh nói rằng họ biết về tòa thành cổ, nhưng coi nơi ấy là vùng đất thiêng nên không xâm phạm.
Điều đặc biệt nhất về Lemürre chính là họ có rất nhiều sự tương đồng với một nền văn minh khác trẻ hơn mình những hai vạn năm. Khi tìm thấy các hầm ngầm của thành phố, người ta phát hiện ra vô số những golem chiến đấu bị bỏ lại. Phần lớn đã hư hỏng hết, nhưng vẫn còn một số khá nguyên vẹn. Thậm chí Columbia đã thành công khôi phục hai con và đánh giá hiệu quả tác chiến của chúng không thua kém gì lính chuyên nghiệp. Golem nơi đây, đặc biệt, hoàn toàn dùng lò phản ứng hồ quang và có hình dạng giống hệt con người, không có ma pháp can thiệp, không như Novgoroussiya vẫn phải dùng ma thuật để tạo các “bo mạch linh lực” đóng vai trò bộ não nhân tạo. Chúng có thể bay, điều làm thất kinh những nhà khoa học tham gia nghiên cứu. Họ không hiểu nổi vì sao một xã hội đã phát triển tân tiến tới thế lại phải chịu diệt vong.
Nhưng gần đây, câu trả lời phần nào được sáng tỏ.
– Hai năm trước, một đoàn thám hiểm đã phát hiện ra dấu tích của các cảng khổng lồ chìm dưới mặt nước!
Khua khua tay, Mộc Ma nói, mặt đầy hứng thú.
Nhỏ kể rằng, chuyến thám hiểm ấy được thực hiện theo hiệp ước hợp tác giữa chính quyền sở tại và Đế quốc Hy Brasil, quốc gia nổi tiếng với những đoàn khảo cổ giàu kinh nghiệm, cũng như có trang thiết bị hiện đại bậc nhất cho việc này. Khảo sát địa chất bằng sóng âm và sóng radio cho thấy lục địa Mü từng lớn hơn gấp rưỡi hiện tại, nhưng phần đất ấy hiện đã bị biển nuốt chửng. Do lục địa ở xa các dòng hải lưu, biển xung quanh tương đối ôn hòa, có thể lên thuyền con giong buồm đánh cá được, nên những tàn tích dưới kia cũng an toàn.
Dựa trên kích thước, có thể nhận ra những cảng lớn này thích hợp cho tàu bay tải trọng vài chục ngàn tấn neo đậu. Dấu tích của kho bãi, cần cẩu, đường ngầm và những ụ xây chìm bên dưới, tuy đã bị thời gian với nước biển phá hủy khá nhiều, vẫn còn nhận ra được. Theo suy đoán, người Lemürre thậm chí không phải dân tộc gốc ở Thủy Tinh, dựa theo ghi chú, kiến thức lẫn những hình vẽ còn sót lại. Chủng tộc này đặc biệt sở hữu mái tóc đỏ, da trắng ngần, mắt đỏ to tròn, đặc biệt đôi khi họ đeo những chiếc sừng bằng pha lê trên nón rất đẹp. Họ cao khoảng gần ba thước, nếu xem xét theo những căn nhà còn tồn tại, với chiều cao trần phòng thường dao động từ năm tới sáu thước.
Người bản địa ngày nay gọi những cư dân của Lemürre là “thần”, những vị thần trong bộ đồ rộng và chiếc mũ trong suốt. Một giả thuyết gây sốc được nêu lên, rằng những cư dân của quốc gia này chính là người ngoài hành tinh, đã ghé đến đây và xây dựng thành phố ấy. Xét nghiệm DNA và cấu trúc giải phẫu những bộ xương khai quật được – đã xin phép chính quyền – cho thấy bộ nhiễm sắc thể của những người này đạt con số đáng kinh ngạc: Một trăm sáu mươi cặp, trong khi loài người Thủy Tinh chỉ có hai mươi tư.
Nhiều mảnh kim loại được tìm thấy ở khu cảng cho thấy chúng không thuộc về hành tinh này. Những nguyên tố quá kỳ lạ, cũng như Truyền thuyết về tộc “lạ” này vẫn được lưu truyền. Trong số đó, có thể kể tới câu chuyện về thần linh giáng trần trên những tòa thành bằng kim loại sáng bóng, dùng gậy bắn ra tia sáng, hay những mũi tên gầm rú như sấm,… Cộng đồng khoa học gia ngày nay đa số nhất trí rằng nền văn minh Lemürre thực sự đến từ vũ trụ.
Tuy nhiên, một số ít không nghĩ mọi chuyện đơn giản thế.
Riêng về Lemürre, Mộc Ma đặc biệt nói dài hơn các nền văn minh hậu Xích Quỷ khác. Khoanh tay trước ngực, cô bé gật gù đầu, bảo:
– Trước đây người ta nghĩ dân Lemürre là người vũ trụ, nhưng giờ có quan điểm khác rồi! Nè, nói tớ nghe coi, miêu tả ngoại hình họ cao lớn, da trắng, tóc và mắt đỏ, đôi khi đeo sừng trên đầu làm cậu nghĩ tới ai?
– Tớ… Cũng để ý cái đó rồi!
Bất ngờ, Viêm gật đầu. Kỳ thực nhỏ đã nhận ra điều bất ổn khi Mộc Ma kể đến đấy. Xâu chuỗi lại nào. Lemürre tồn tại khoảng ba vạn năm ngàn năm sau khi đế quốc “đó” sụp đổ. Vào thời kỳ cuối, họ đã thành công trong việc di chuyển nhanh hơn ánh sáng, cũng như lập được thuộc địa ngoài vũ trụ. Tàn tích vẫn còn tới ngày nay, cũng có nghĩa chủng tộc ấy đã từng ra không gian định cư. Nhưng mà, vậy chẳng lẽ…
– Đúng rồi đó!
Mộc Ma nuốt nước bọt.
– Có thuyết mới nói rằng người Lemürre chính là hậu duệ của Xích Quỷ!
– Đùa nhau à?
Chơi quả này thì sốc thực sự! Viêm hét toáng lên, làm mấy người bên dưới giật bắn mình. Báo hại Mộc Ma phải chạy xuống xin lỗi, không thì chẳng biết còn loạn thế nào nữa.
Ngồi xuống lại, bé chột nói:
– Hiện tại thì người ta đang tranh luận coi có thực tế không, vì cậu thấy đó, khoảng thời gian ấy quá lớn! Nhưng chúng ta có Đế Viêm ngay đây, bả biết cái nào là công nghệ Xích Quỷ mà! Và biết gì không?
– Chuẩn hàng Xích Quỷ chất lượng cao? – Viêm thận trọng hỏi,
– Mẹ tớ… cũng bó tay!
Nhún nhún vai, Mộc Ma nhếch mép cười trừ. Nó nói, lần ấy người ta mời Hồng Ma qua để kiểm tra. Vì ngoài Quân đoàn 1 thì mẹ nó là sinh vật thọ nhất Thủy Tinh rồi… dù không biết hồn ma bóng quế có tính là “sinh vật” không nữa. Theo đó, về cấu trúc di truyền cũng như giải phẫu xương, bà già chúa sừng đã xác nhận chúng là xương của tộc Xích Quỷ, tuy nhiên nhiều phần xương bị thoái hóa, có lẽ nguyên nhân là do sống trong môi trường không trọng lực quá lâu. Các bộ hài cốt còn tương đối nguyên vẹn, phần vì xương tộc Xích Quỷ vốn rất bền, lại thêm vùng đất chôn họ khá khô, nên có thể bảo quản được lâu.
Tuy nhiên, khi xem xét đến công nghệ tìm thấy, Hồng Ma lại bất ngờ khi nói rằng thứ ấy không tồn tại trong thời của mình. Các lò phản ứng thời Xích Quỷ, vốn được tìm thấy trong những di chỉ ngầm nằm sâu dưới lòng đất, sử dụng máy gia tốc năng lượng tối, trong khi các lò hồ quang như thứ tìm được trong golem và nhà máy của Lemürre, Hồng Ma xác nhận, thuộc về một giai đoạn rất xa về trước, khi Xích Quỷ có những bước đi đầu tiên trong công nghệ năng lượng. Nói cách khác, chúng quá lạc hậu nếu so với công nghệ lúc đất nước bị hủy diệt. Do thời kỳ cai trị của Đế Viêm kéo dài hơn hai trăm năm, nên có thể đoán kỹ thuật xây dựng các lò nhiệt hạch ấy nằm vào khoảng nửa đầu triều đại của cô ta. Quá lỗi thời, nhất là khi Hồng Ma đã từng thành công xây dựng thuộc địa trên Mặt trăng.
Cuối cùng, mọi thứ vẫn còn bị phủ bức màn bí ẩn. Người Lemürre có thực sự là hậu duệ của Xích Quỷ không vẫn còn chưa ngã ngũ. Kể cả những cô đồng được mời đến “gọi hồn” người chết cũng bó tay, vì hồn phách họ đã tiêu tan từ lâu. Nghi vấn lúc này hướng về Hồng Ma, người đã quá nổi tiếng với Tử linh Ma pháp cho phép thao túng linh hồn, nhưng không có bất cứ bằng chứng cụ thể nào. Vả lại, việc xảy ra trước khi bà già tham gia, nên không thể nói bà ta đã xử lý hết. Bí mật của Lemürre, họ thực sự là ai tới giờ vẫn chưa được giải đáp.
Dừng một chút, Mộc Ma nói:
– Nhưng có một điều…
– Gì nữa?
Viêm nhăn mặt hỏi. Nãy giờ đầu nó muốn quá tải rồi.
– Đó là đã có một đất nước kế thừa được công nghệ Lemürre! Một quốc gia toàn cầu đã cai trị hơn mười ngàn năm trước, nhưng sau đó bị nhấn chìm dưới đáy biển! Nguồn gốc của những huyền thoại, huyền sử và đủ thứ thuyết âm mưu…
– Imperium Gatlantus.
– Chính nó! Mà sao cậu biết hay vậy?
– Thì hôm qua ấy, thuyền trưởng có cho tớ coi bài báo về chuyện trục vớt xác tàu có chứa orichalcum, sau đó chị Lệ nói thế nào tới cái xứ đó luôn…
– Ài, ra rứa!
Lại giở giọng Trung, Mộc Ma đập tay vô nhau, rồi nói, những gì Lệ đã kể đều là sự thật hoàn toàn, nhưng vẫn chưa công bố. Điều ấy khiến Viêm tròn mắt, mồm há muốn rớt đất. Đúng, hôm qua những gì hai người đó kể nghe rất thật, nhưng cuối cùng chị Lệ chốt cho câu “mọi thứ chỉ là suy đoán” khiến nó tuột từ chín tầng mây xuống tận cái rãnh sâu nhất của mặt đất. Nhưng bây giờ, tự nhiên nhỏ thấy bất an. Nãy giờ con bạn nói có một nền văn minh liên quan tới Lemürre nhưng cách nó cả mấy vạn năm, lẽ nào ý nói…
– Ừm, đoán đúng rồi đó!
Nháy mắt đầy tinh nghịch, Mộc Ma thè chiếc lưỡi đỏ bé xinh rồi bảo, hiện chưa có bằng chứng cụ thể nào cho thấy Imperium Gatlantus, Gatlanta cho ngắn gọn, là hậu duệ trực tiếp của Lemürre, hay xa hơn, Xích Quỷ. Nhưng nhiều khả năng rằng họ cũng là một quốc gia tiên tiến, đã phát triển khoa học của riêng mình, và chỉ “học tập” thêm những gì người đi trước để lại. các tư liệu để lại, cũng như chuyện kể của chính những người đã sống qua thời kỳ đó, rằng Gatlanta nguyên bản, không phải hàng nhái ở đảo Cypra, sở hữu những thứ trông như xe gắn máy bây giờ, nhưng lơ lửng được trong không trung và gắn những cây gậy phép bắn ra tia sáng rất đáng sợ.
Họ cũng sở hữu hạm đội tàu bay hùng mạnh, được biết đến với tên gọi “Yarnde yi éste Felisímo Armanta”, trong ngôn ngữ Gatlanta nghĩa là “Hải quân vĩ đại và may mắn nhất”. Với sức mạnh khoa học vượt trội, mà hầu hết yêu ma cho rằng đó là ma pháp đặc biệt, Gatlanta chinh phục hầu như toàn thế giới, với ngoại lệ là vùng Viễn Đông và khu vực Cộng hòa Hellen thứ nhất. Tàn dư của họ tồn tại trên khắp Tân Thế giới, hay châu lục Columbia theo cách gọi hiện đại. các công trình lớn như đền thờ, cung điện, thành phố, cảng hàng không cho thấy quy mô dân số của Gatlanta trên châu lục không nhiều, phần lớn dân cư của họ tập trung trên một vùng đất được cho là đã bị nhấn chìm vào cuối kỷ Băng hà gần nhất.
Hậu duệ của người Gatlanta tản ra khắp nơi trên lãnh thổ tổ tiên họ chiếm được. Nhánh Gaia dần trở thành tộc Enjuskant, sống trên bán đảo Remusa và là tổ tiên của ngữ hệ Remusa hiện tại, bao gồm nhóm Remusa cổ ở Valakia, Gaulois – Remusa ở Gaullia và Hispa Remusa trên bán đảo Hispa, nơi tọa lạc của Espánia và Portugale. Người Enjustkant gặp gỡ các nhóm di cư từ cao nguyên Qaadta sang, đã tạo thành Enryan, một “tập hợp” các loài yêu quái mang đặc điểm từ hai chủng này. Chính Enryan là tổ tiên của người Valryan, hay còn gọi với tên Val Nord, chính là các dân tộc nói tiếng Valhöll ngày nay. Ngôn ngữ Hispa Remusa cũng là tiếng nói chính của Terra Méxca với Hy Brasil, vì các nước này từng là thuộc địa lớn nhất của hai quốc gia kia, lần lượt. Có chút khác biệt trong phát âm và chính tả, nhưng ngữ pháp như nhau.
Sự sụp đổ của Gatlanta là tất yếu, do nó gây chiến với toàn thế giới. Không một quốc gia nào có đủ khả năng như thế cả. Chưa kể việc thảm họa thiên nhiên vào giai đoạn đó cực kỳ khốc liệt, mực nước biển dâng nhanh khiến châu lục bọn họ sống chìm dần, cuối cùng thì mất hút luôn. Tàn tích cuối cùng chứng minh nơi ấy từng tồn tại chính là vịnh Terra Méxca, vùng biển nông toẹt chỉ sâu vài chục tới vài trăm thước, che giấu cả một siêu cường cổ đại, cùng những công trình rải rác tại Cộng hòa Carib và phía Nam Tân Thế giới.
Thở dài thường thượt, Viêm nói:
– Tụi mình lại tổ lái quá xa chủ đề chính rồi… nhỉ?
– Xin lỗi, tại tớ hăng quá…
Đỏ ửng mặt, Mộc Ma quay sang bên. Mà khoan, tại sao khi nhìn mặt Viêm, với con mắt cụp xuống và có phần đuối ấy, nó lại thấy dễ thương cực kỳ cơ chứ?
Lại nhìn thẳng vô nhau, chúng nó khúc khích cười. Có bao giờ cuộc nói chuyện không kết thúc bằng việc Mộc Ma lái quá xa chuyện chính, còn Viêm, vì tò mò, nghe theo mà không nói gì đến phút chót không? Hình như… chưa bao giờ nhỉ? Nó nhớ lại cái hôm hạ cánh, hai đứa ngồi uống nước cùng nhau dưới ánh chiều tà. Con đầu đỏ kia đã nói những khi chm1 gió như thế không cần cứng nhắc câu nệ chủ đề, mà cứ nói cho thoải mái thôi. Nó tin thế là đúng. Có phải phỏng vấn xin việc hay thăm dò cái gì đâu, chỉ đơn giản là hai đứa nhỏ ngồi nói đủ thứ trên trời dưới đất thôi mà!
Tới tận phút chót, Mộc Ma mới nói được thứ gì đó đúng đề tài. Theo đó, các tàn tích của những xã hội trước đó nằm khắp nơi trên thế giới này, cũng như có cả của lần này luôn. Các vương triều thuộc “nền văn minh lớn thứ hai”, tức hiện tại, nếu đã suy tàn và sụp đổ thì những gì họ để lại cũng được tính vào. Không chỉ vậy, các công trình của những quốc gia còn tồn tại cũng được coi như di tích luôn. Hoàng thành Đông Kinh, thành cổ Gia Định, thủ phủ Bình Sa, những nơi như thế đã có tuổi thọ cả ngàn năm hơn, chẳng lẽ không được?
Mộc Ma thừa nhận, việc tự xem bản thân là “nền văn minh lớn” cũng như gọi các quốc gia nổi lên trong khoảng sáu vạn năm ngàn năm kia là “nhỏ” có phần kiêu ngạo, nhưng so sánh quy mô thì lại thực sự như vậy. Éred al Khazard, Lemürre hay Imperium Gatlantus không để lại được sức ảnh hưởng đủ lớn trên phạm vi toàn cầu. Người Gjeen sống trong khu vực quá nhỏ, lục địa Mü bị chia tách khỏi đất liền, còn Gatlanta bị hủy diệt trước khi kịp để lại thứ gì đủ ảnh hưởng. Tuy vào thời hoàng kim, họ có thể là thế lực có số má, với Gatlanta thậm chí thành lập một đế quốc toàn cầu, vẫn bị hủy diệt bởi cả thiên nhiên và các thế lực khác.
Và trên hết, không cái nào vươn được đến tầm như Xích Quỷ, khi họ, trên thực tế, đã thực sự “thống nhất” Thủy Tinh thành một “nước” duy nhất, chỉ dưới hình thức chư hầu vệ tinh và các khu tự trị. Không chống đối, tuân phục hoàn toàn, chẳng ai dám thách thức quyền lực của hoàng triều thành Ba Biệt, kinh đô huyền thoại của đất nước siêu khủng đó. Thế lực lớn như thế, lại chưa kể các công pháp tu luyện, phát minh khooa học của họ giờ đang được ứng dụng trở lại, với những cải tiến mới cho phù hợp với thời kỳ hiện tại.
Thở dài, Mộc Ma nói:
– Buồn cái là giờ mấy di tích đó đầy ra, nhưng chưa ai tìm được thành Ba Biệt cả! Kinh thành của Xích Quỷ, mẹ tớ vẫn luôn kể về nó với sự tự hào tuyệt đối, hoàn toàn không chút hối tiếc! Chỉ là… vẫn chưa tìm thấy…
– Kinh thành Ba Biệt? Nó như thế nào vậy? – Viêm hỏi.
– Cậu nhớ nãy tớ nói về tòa thành của dân Lemürre chứ? Có lần mẹ kể với tớ, nơi ấy xây phỏng theo kiến trúc của Ba Biệt, có điều cái thành đó chỉ là bản nhái nhỏ xíu, không thể so được với kinh đô!
Nói đoạn, Mộc Ma bắt đầu kể, dù nó cũng nói bản thân không chắc chắn, do chỉ nghe lại từ mẹ. Ba Biệt là tên trong tiếng Xích Quỷ, mang nghĩa “thành nhà trời”. Nói vậy cũng không sai, vì theo Hồng Ma và cả huyền sử của các chủng tộc trong khu vực Xích Quỷ ngày xưa, thì kinh đô rất cao, bức tường vòng ngoài đã lên tới một trăm thước, dày bảy mươi thước, bên ngoài lát đá trắng muốt. Chín vòng tròn đồng tâm thu nhỏ dần vào trong, tính ra bán kính lên tới vài trăm cây. Nhà dân xây kiểu ô hình bàn cờ, các con đường vuông góc chia những vụm nhà thành từng khối rất đẹp.
Trung tâm Ba Biệt là Tháp Trắng, tòa tháp của Đế, với chiều cao “kinh khủng” mười ngàn thước vươn lên giữa trời xanh, hình lăng trụ mười hai mặt bên. Đứng trên đó có thể chạm tới các đám mây ở tầng bình lưu. Toàn bộ phần đáy tháp có đường kính ba mươi cây, lên trên nhỏ lại dần, như mũi giáo đâm thẳng lên trời xanh. Xây xung quanh nó là toàn bộ hệ thống đền đài, cung điện, nằm ở độ cao một ngàn thước so với mặt đất. Mười hai tháp con được dựng lên xung quanh, mỗi cái hai ngàn thước, tức một phần năm chiều cao Tháp Trắng, được gọi là các tháp của Hầu, tượng trưng cho mười hai vùng hành chính xung quanh kinh đô. Các tháp Hầu dẫn vào Tháp Trắng bằng cầu vòm cong, nối vào các mặt bên tương ứng.
Công trình lớn đến thế vượt qua cả ngọn núi cao nhất Thủy Tinh, tính từ mặt biển lên là chín ngàn thước hơn. Nó vĩ đại đến nỗi từ xa cũng có thể trông thấy, và khi Đế làm lễ đăng quang, hào quang trắng vĩ đại sẽ bao phủ toàn bộ vùng lãnh thổ xung quanh. Thậm chí người ta còn đồn rằng nó vốn được xây để tạo thành đường thông với trời, giúp các thành viên hoàng tộc tu luyện tốt nhất có thể. Bản thân Hồng Ma cũng không biết bản chất trắng đen ra sao, tới khi tu tập thì thực sự nhận ra tòa tháp ấy giúp đẩy mạnh hiệu quả gấp hàng vạn, đến cả hàng triệu lần.
Tuy nhiên, toàn bộ Ba Biệt đã biến mất trong đại họa. Nhiều nhà nghiên cứu đã nói rằng với một tòa thành có kích thước như thế, nó sẽ không thể tồn tại được, nhất là khi nền đất xây thành theo huyền sử lại là vùng châu thổ đất mềm, không thể tải nổi khối lượng quá lớn bên trên. Bản thân Tháp Trắng cũng quá đỗi kỳ dị: nó chưa sập khi cao hơn năm ngàn thước đã là kỳ tích. Các tranh luận cứ diễn ra, trong khi thực tế, toàn bộ kinh thành đã “bốc hơi”. Chẳng có dấu vết gì cho thấy nó từng tồn tại ngoài những câu chuyện. Mọi thứ cứ tiếp tục chìm vào nghi vấn.
– Chà, hai đứa bàn luận vui ghê nhỉ?
– Mẹ?
– Thuyền trưởng?
Giật bắn người, Mộc Ma nhìn lại thì đã thấy vợ chồng nhà Tổng lãnh đứng sau lưng tự khi nào. Con bé không biết, chứ Viêm vô tình để ý, giữa không gian xuất hiện “vết cắt” đen xì, rồi đôi tay Giao Long xuất hiện, mở toang nó ra như cách người ta xô mạnh cánh cửa. đằng sau, các chị lớn cũng đã lên. Biết rằng tới lúc phải quay về làm việc, Mộc Ma đứng dậy, chào Viêm rồi lon ton chạy xuống dưới. Masami đi theo, còn Hương Hương lên trước mở khóa tay lái. Oa Lân về lại vị trí bàn liên lạc, vẫn cầm đống sổ, hay giấy báo cáo, trên tay. Thuyền trưởng ngồi vào ngai, thả lỏng lưng, còn Hồng Ma đứng cạnh vợ. Viêm chạy tới giữa họ, như đứa con nhỏ trong gia đình.
Nhìn mọi người đã vào vị trí đông đủ, Viêm mói kéo áo Hồng Ma, thì thầm:
– Hồi nãy mọi người đi hết… có ổn không ạ?
– Ổn thôi! – Hồng Ma nháy mắt – Con tàu này có nhiều hơn một trung tâm điều khiển đó! Trên này tèo thì chỗ khác vẫn sống tốt!
– Dạ?
– Bí mật quân sự, không nói đâu, ga ha ha!