Độ cao bốn ngàn, tốc độ hành trình.
Hạm đội ba trăm hai mươi tàu bay giữa trời, đó là cảnh tượng có nằm mơ Viêm cũng không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Bốn ngàn thước so với mặt biển, không phải quá cao nhưng vẫn đủ làm lạnh cóng những kẻ dám cả gan mò ra, nhất là khi tàu đang chạy ở cả trăm lý mỗi giờ, có khi hơn. Áp suất trong tàu duy trì ở mức bình thường, giống như khi ở dưới mặt đất, nhưng nhiệt độ rõ ràng lạnh hơn hẳn.
Viêm không biết vì sao, nó chưa đi máy bay bao giờ, và lần trước hạ cánh cũng chẳng lạnh thế. Nhưng run quá, nó bất giác tự cuốn mình vào trong vạt áo thuyền trưởng luôn. Nhìn con bé, Hồng Ma phải gồng lắm mới không vào “nựng”, còn Oa Lân thậm chí không dám liếc sang! Má hồng hồng, phúng phính, tóc đen dài, mặt hơi ửng, lại cuộn tròn thế, sao lại dễ thương quá chứ!
Nhìn Viêm đang run vậy, Giao Long nói:
– Oa Lân, tới lúc rồi.
– Vâng.
Oa Lân gật đầu. Đoạn, chị ta đi tới chỗ bàn liên lạc, làm gì đó. Hình như là nối dây? Viêm không biết, nhưng nhìn lạ lắm. Mò mẫm một hồi, thuyền phó mang sang thứ gì trông như cái điện đàm, gắn trên chiếc hộp như điện thoại để bàn, với sợi dây xoắn xoắn nối dài sang phía sau. Góc phải trên cùng, chiếc đèn đỏ nháy sáng, báo hiệu gì đó, sai lại chuyển sang màu xanh. Cầm điện đàm lên, Giao Long chỉnh lại thứ gì ấy, có lẽ là âm lượng, rồi bắt đầu nói:
– Đây là Thủy sư Đô đốc Giao Long, tới toàn bộ hạm đội. Hôm nay, hăm bảy tháng Ba, chúng ta chính thức khởi hành tham dự cuộc diễn tập thường niên của Không quân Đế quốc. Trong số những người tham gia, có lính mới, có cựu binh, có những người thâm niên nhưng chưa từng lên tàu, cũng có người coi tàu là nhà. Có thể mỗi người khác nhau về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, kiến thức hay đơn giản nhất là chuyên ngành, ta muốn tất cả đoàn kết, tương trợ nhau để chuyến đi này diễn ra tốt đẹp. Hết.
Cạch.
Đặt lại máy vào vị trí, Giao Long ngả lưng ra sau. Vẫn cái giọng nói đều đều như “chị Gu gồ dịch”, nhưng Viêm lại cảm nhận được uy lực và sức nặng trong từng con chữ. Khí thế ngất trời, không cần phải nhấn nhá, ngân nga hay gào lên như sắp chết tới nơi, chỉ nói thẳng tắp vậy thôi cũng quá đủ khiến người ta thấy trong lòng như lửa đốt.
Xong xuôi, thuyền trưởng mới tạm thời “thả lỏng”. Không còn vẻ mặt căng thẳng nữa, thay vào đó là cảm giác nhẹ nhàng đến lạ. Những người khác cũng có vẻ thế. Họ chẳng hiện ra sự lo lắng, thay vào đó lại là vẻ dễ chịu, tận hưởng cuộc sống. Viêm nghĩ, tận hưởng thật.
Bốn ngàn thước so với mặt biển, nghe không cao lắm nhưng thực ra lại rất vừa, nhất là sau khi rời khỏi phong lộ. Ban nãy, tàu bay tránh khỏi vùng trung tâm, ấy vậy mà vẫn bị “máy chém” đánh cho mấy phát. Hồng Ma bảo như thế còn nhẹ chán, bình thường đi vào đường gió bên trên điện Cây Quế, bị gió chém cho gần tan manh giáp nữa cơ. Hôm nay Giao Long đã dẫn tàu đi theo lộ trình ít gió nhất, né được kha khá máy chém, và cũng nhờ vậy mà không bị sét đánh. Dĩ nhiên không ai dám tự tin là mình có thể trâu bò mà đánh thẳng qua chỗ như vậy, nhưng đi lách cũng chưa chắc an toàn. Vì thế toàn bộ các tàu trong hạm đội đều dùng lá chắn, dù bình thường ít khi phải đụng tới.
Lúc này Viêm mới biết, các lá chắn năng lượng của tàu chiến có hai loại, chủ động với bị động.
Nói về bị động, đây chính xác là thứ Mộc Ma đã kể nó nghe đêm trước. Một lớp bọc lớn bao phủ quanh thân tàu, nếu phải hình dung thì sẽ giống viên con nhộng, trở thành tấm bảo vệ thứ nhất. Lớp này chuyển động thành dòng, tuy không thấy được bằng mắt thường, nhưng lại có khả năng cản đạn khá tốt. Do bản chất hình thành từ hệ thống phản trọng lực, thứ này giống như một cái nam châm ngược, liên tục đẩy mọi thứ bên ngoài ra chỗ khác, nhưng chỉ có tác động như thế với thứ to cỡ… hạt bụi, còn cát vẫn không thể bị hất.
Nó không ảnh hưởng tới la bàn – chính xác hơn, không gây bất cứ ảnh hưởng điện từ tiêu cực gì với tàu – tuy nhiên có thể dùng để khuếch đại và gây rối la bàn của tàu địch trong một khoảng ngắn. Lá chắn bị động chịu được tối đa chỉ là phong lộ, những cơn gió dù nhanh nhưng dễ bị thổi tung, chứ hoàn toàn vô dụng trước đạn. Dĩ nhiên, đó là ở mức đầu ra mặc định. Đối với những trường hợp tác chiến hay trong vùng nguy hiểm, một khu trục cỡ Xích Quỷ có thể tạm thời nâng mức năng lượng đầu ra đủ để chống cả đạn nổ tăng cường ba trăm lẻ năm ly trong khoảng thời gian ngắn, nhưng đổi lại năng lượng hao hụt sẽ cực lớn, thậm chí tạm ngừng máy phản trọng lực một thời gian. Vì điều này thường đồng nghĩa với tự sát nên hầu như không ai thực hiện.
Giáp bị động mạnh yếu khác nhau tùy loại tàu. Với một khu trục hạm, nó chỉ như cái quạt máy thổi cho vui, nhưng chỉ cần từ tuần dương chiến đấu, hay tàu chiến – tuần dương trở lên, thứ ấy có thể chịu đạn pháo cỡ nòng từ một trăm năm mươi hai ly đổ xuống dễ như bỡn, đồng thời chuyển thành vũ khí cận chiến cự ly siêu gần, như tập trung vào mũi nhọn trước tàu và tông chẳng hạn. Trường xoắn ốc cực nhanh đó sẽ biến thành chiếc “mũi khoan” ngay trước tàu, đâm vào đối phương và xé toạc mạn. Nghe thế, Viêm không khỏi rùng mình, chẳng biết do sợ hay lạnh nữa. Nhưng chắc chắn, cái mặt nó tái xanh khi biết Hồng Ma cũng làm được điều tương tự… với quả mũi tàu kinh điển đó!
Trong khi đó, “giáp chủ động” lại là một khái niệm khác, có phần quái đản hơn so với phiên bản bị động của nó. Hệ thống phòng ngự chủ động tầm cực gần, tên gọi chính xác và đầy đủ của loại hình này, là sự kết hợp giữa một lớp kết giới “bó sát” thân tàu với toàn bộ các hỏa lực phòng thủ nó sở hữu. Nói cách khác, hệ thống này chính là sự “cường hóa” lớp vỏ ngoài, kết hợp với hỏa lực bắn nhanh để chống lại các mối đe dọa tầm gần. Chúng hiện chưa có khả năng đánh chặn đạn pháo, điều vẫn đang được nghiên cứu, nhưng với bom bay cận âm thì đã có thể bắn hạ, nếu cự ly đủ xa.
Hệ thống phòng ngự chủ động tầm cực gần, được phát triển bởi liên minh quốc phòng giữa Albion với Columbia để chống lại sự phát triển bom bay đời mới của phe Trục Branden – Muscovy – Đông Kinh. Với tên gọi đầy đủ trong tiếng mẹ đẻ là “Active, Close – in Defense System”, hay ACIDS, phát âm “ây xít”, cho ngắn gọn, nó bao gồm một kiểu lá chắn năng lượng mới, triển khai chung với hệ thống kiểm soát hỏa lực, radar cảnh giới lẫn động cơ tàu. Một bộ tích hợp điều hành chung được bố trí ở khu vực trung tâm, nằm bên trong “pháo đài” bọc thép của tàu, sau tất cả mọi thứ phòng vệ tốt nhất. Nó, theo lý thuyết “tất cả hoặc không gì hết” của Columbia, sẽ ở cùng dạng bảo ệ với bộ máy điều khiển hỏa lực chính, được bảo vệ tốt nhất, từ nơi đó sẽ đưa lệnh điều hành lên những khu vực khác.
Kết giới chủ động được hình thành theo nguyên lý tương tự giáp bị động, tức chuyển năng lượng từ trường sinh ra trong quá trình dung dịch Divaenium xử lý phản ứng hợp hạch ra ngoài, nhưng thay vì thành một lớp vô hình, nó sẽ hiện hữu hình trên bề mặt, với hình thái những ô lục giác đều nằm san sát nhau, gần chìm hẳn với màu sơn nhưng không phải không thấy được. Tuy nhiên, năng lượng chuyển hóa thành giáp bị động hoàn toàn thuộc về phần “dư thừa” của quá trình xử lý phản trọng lực, về cơ bản không gây hao tổn không cần thiết cho hiệu suất, thì kết giới lai6 yêu cầu động cơ chuyển một phần năng lượng sang cho. Như vậy, nguồn cấp cho các bộ phận khác bị giảm, và hiệu quả tác chiến sẽ giảm, trong khi thủ chưa biết lên tới bao nhiêu. Và vì cả hai loại màng năng lượng ấy đều chỉ có thể chống loại đạn chạm nổ, đạn xuyên giáp và bom bay có thể vượt qua chúng một đoạn, nếu đủ mỏng.
Còn khả năng điều khiển hỏa pháo phòng thủ, nó thuộc về một lĩnh vực khác, điều mà người chuyên trách phòng không như Mộc Ma sẽ phải biết rất rõ. Công nghệ radar của Đế quốc vẫn chỉ là con số không tròn trĩnh, việc quan sát, dẫn bắn còn phải phụ thuộc vào máy đo cự ly với loa AL nên chuyện hiện thực hóa nó không dễ chút nào.
Tuy nhiên, không có nghĩa điều ấy không thể. Albion với Columbia đều đã thành công trong việc tích hợp hệ thống radar dẫn bắn vào máy tính điều khiển vũ trang của tàu, với xứ dân chủ đi còn xa hơn khi không chỉ dừng ở phòng không gần tàu, họ còn làm điều tương tự với các tháp pháo chính. Toàn bộ cột buồm tàu chính là máy điều khiển hỏa lực, kéo sâu hàng chục thước xuống giữa thân, sau đó lại lan tỏa trong pháo đài thép, nối với các tháp pháo qua phần bệ. Điều ấy gần tương tự chuyện lắp đặt một bộ não máy cho tàu, bên cạnh thủy thủ, còn có thể giúp tính toán, xác dinh955 vị trí cực nhanh, từ đó vận hành chính xác hơn.
Nếu Novgoroussiya đi đầu về công nghệ golem chiến đấu, trí tuệ nhân tạo với các bo mạch linh lực chạm khắc công nghiệp hóa thì Columbia đặc biệt đáng sợ ở năng lực “tự động hóa” các vũ khí của họ. Hai mươi năm trước, một nhà khoa học đã tạo ra thứ đồ chơi điều khiển từ xa đầu tiên, sử dụng sóng radio và một cặp ăng ten để truyền với thu sóng. Vài chục năm sau, quốc gia ấy đã thành công chế tạo bom bay dẫn đường bằng sóng vô tuyến kết hợp tia khồng ngoại, một dạng “vũ khí dẫn đường” chứ không phải phóng ngu nữa.
Họ đủ công nghệ để đồng bộ hóa máy dẫn đường của bom bay với hệ thống radar dẫn bắn, chế tạo những quả bom bay thuôn dài đầu tròn tròn bay cận âm nhưng cự ly cực xa để đánh tàu chiến. Đặc biệt chúng được phóng thẳng đứng chứ không phải trong các ụ ngang truyền thống nữa, nên dù đương lượng nổ ít hơn đáng kể so với đạn pháo truyền thống, tính cơ động với tầm bay lại vượt trội hơn. Loại này, được gọi bằng danh xưng “tên lửa” để phân biệt với “bom bay”, chỉ có thể hạ xuồng nhỏ, nhưng thế cũng là quá đủ cho nhiệm vụ phòng ngự xung quanh tàu, chuyện đấu tay đôi đã có pháo chính lo. Kết hợp với kết giới và dàn hỏa lực phòng ngự tầm gần, chúng tạo thành ACIDS thực sự, chứ không phải chỉ có mỗi khả năng bọc kết giới tạm thời và dẫn bắn bằng cơm như đa số các nước khác.
Dĩ nhiên, những thông tin này Viêm biết được nhờ Giao long nói chuyện trong tâm trí nó.
Không như ban nãy, bản thân bị kéo vào thế giới tinh thần của Giao Long, lần này hai người ngồi đối diện nhau qua chiếc bàn đá tròn, tựa lưng trên ghế dựa, trôi nổi giữa vùng không gian rực rỡ mà huyền ảo tựa chính vũ trụ. Nhỏ thấy cả những thiên hà trôi qua trước mặt, các tinh vân đầy màu sắc khổng lồ, với hằng hà sa số các vì sao lấp lánh trải khắp không gian mênh mông. Dải Ngân hà vẫn hiện ra thật rõ, dòng sông bàng bạc vắt giữa trời đêm, trong khi thiên hà Andromeda gần đó đang tỏa sáng thật đẹp. Các đám mây Magellan ẩn ẩn hiện hiện ở vùng rìa, nó biết vì có xem một bộ anime về khu vực này rồi.
Trên bàn, giữa hai người ấy là khối cầu thủy tinh lớn, thể hiện rõ hình ảnh “thực” bên ngoài như thế nào. Trong khi rõ ràng Viêm tròn mắt kinh ngạc khi thấy chính cơ thể mình vẫn đang đứng co ro trong vạt áo thuyền trưởng, gần như bất động và không nói năng gì, thì Giao Long có vẻ khá bàng quan. Cô chú ý vào các sĩ quan đang làm việc hơn. Bình thường trên tàu, thuyền trưởng rất ít khi ra lệnh. Khác với những chiến hạm thông thường, cô trao hầu như toàn quyền cho Hồng Ma với tư cách quyền thuyền trưởng, trong khi Oa Lân chỉ huy thực tế, còn bản thân sẽ chỉ ngồi im như tượng. Hầu như “Thi Hoàng” không bao giờ trực tiếp ra lệnh, nếu có cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay – dĩ nhiên, mỗi ngày.
Bẻ ngón tay vài tiếng răng rắc, Giao Long nói:
– Có thấy lạ không khi ta lại đem hết chuyện quân sự thế này nói với nhóc?
– Dạ?
Nghe thế, Viêm chợt nhướng mày, rồi đề phòng. Nãy giờ nghe kể đã quá, nó bị cuốn theo khi nào không hay. Bây giờ nghe câu này, nhỏ mới giật mình. Bí mật quân sự mà nó biết nhiều quá rồi! Như vậy… không lẽ cô ta sẽ giết mình bịt miệng?
– Ta không phải xã hội đen.
Giao Long nhếch mép. Rồi như thể sợ bị Viêm hiểu lầm gì đó, cô gãi gãi đầu, nói:
– Chà, cũng không hẳn là ta có thể đọc suy nghĩ tốt như mẹ con nhà đó đâu. Chỉ là trong lãnh địa của ta, mọi suy nghĩ đều hiện ra rõ ràng như giấy trắng mực đen thôi? Trong này, mọi suy nghĩ thầm kín nhất đều bị ta bóc trần, mọi tâm trí tương thông nhau. Trái đất có từ gì để gọi nó không nhỉ?
– Con… không nghĩ là có ạ…?
Viêm hoàn toàn co rúm người. Nó run quá! Không chỉ vì lạnh – bên trong này vẫn cảm thấy rõ cái lạnh – mà còn vì sợ người phu nữ trước mặt. Giữa màn đêm tối đen như mực, chỉ lập lòe ánh sáng từ khối cầu, “Thi Hoàng” hiện lên không khác gì ác quỷ trong phim kinh dị! Màu da tái xanh không chút sức sống, mấy ngón tay dù giấu sau găng cũng chẳng che nổi vẻ gầy guộc, khẳng khiu, cùng đôi mắt cứ ánh lên sắc đỏ thẫm của máu! Lại thêm tóc nữa, mái tóc đen bình thường nhìn rất đẹp, nhưng tối thế này mà lòa xòa như con ma chui ra khỏi tivi thì có mà rụng tim chết luôn chứ!
– Sao thế?
Hỏi vậy thôi chứ nhìn cái nụ cười ngoác rộng tận mang tai của Giao Long thì biết ngay cô ta đang âm mưu gì đó rồi!
– Dạ… Dạ…
– Nhìn mặt ta thấy ghê quá phải không? Làm quen đi, vì thực sự các hành lang trên tàu âm u lắm, có khi đang đi lại ủi trúng mấy gái của Hồng ma thì “rụng tim chết luôn” chứ?
– Mấy cái đó…
– Ta thấy hết, dù ta không phải con mắt thấy tất tần tật, tuốt tuồn tuột cái xứ đất ở giữa của tên mất nhẫn nào đó, ha ha?
– Cô… cũng biết cái đó ạ?
– Sao ta lại không biết?
Chống cằm, Giao Long nhếch môi, Đoạn, cô nói, mình đã sống ở Trái đất một thời gian đủ để biết về đống su hào trong kho của Không quân Việt Nam, đã thăm dò các căn cứ không quân Mỹ, đến các căn cứ hạt nhân Nga, du lịch Chernobyl,… và hơn thế nữa. Viêm không biết có bao nhiêu phần trăm sự thật, nhưng nó nhớ cái hôm “Thi Hoàng” tới, có nghe cô ta nói gì đó về đống “su hào bay”. Chỉ một số người mới dùng từ ấy làm tên lóng cho máy bay dòng Su của Việt Nam, mà có lẽ cụ thể là loại Su – 30Mk2? Ít nhất, cô ta biết về máy bay phản lực, và việc thả hàng trăm triệu con quạ lên trời cũng giống như tên khốn nào rải đinh dày đặc một đoạn Xa lộ Hà Nội để trục lợi vậy.
Rồi “Thi Hoàng” bảo, trong thời gian ở Trái đất, cô đã biết tới khái niệm CIWS. “Close – in Weapon System”, tên đầy đủ như thế, một hệ thống vũ khí tầm gần dùng đánh chặn các đòn tấn công từ đối phương, bất kể mục tiêu đến từ tàu, đất liền hay trên không. Những hệ thống như súng máy sáu nòng hai mươi ly Phalanx CIWS của Mỹ, pháo hạm AK – 630 ba mươi ly của Nga hay mấy thứ tương tự như thế. Khác nhau về công nghệ và có lẽ là cách vận hành, nhưng điểm tương tự giữa chúng với hệ thống ACIDS mà liên doanh Albion – Columbia đang chế tạo chính là dạng vũ khí tầm ngắn, dùng đánh chặn và tiêu diệt các đòn tấn công ở cự ly gần, bảo vệ tàu trong tầm từ vài thước đến vài cây xung quanh.
Đến đây, cô nói:
– Muốn biết sự khác nhau giữa CIWS với ACIDS không?
– Con được biết ạ? – Viêm kinh ngạc – Không phải đó là tin tuyệt mật của quân đội sao?
– “Tin tuyệt mật” quảng cáo rần rần trên báo?
– Ớ…?
– Dĩ nhiên cơ chế vận hành chi tiết thì tuyệt mật thiệt, nhưng cái vẻ ngoài thì thế giới này biết rồi! Chứ con nghĩ ta chẳng lẽ cho điệp viên tới tận nơi ăn cắp bí mật chỉ để kể cho một đứa nhỏ nghe à? Đâu ra mà rảnh vậy?
– Cô… có thể tự phân thân ra rồi đi mà, phải không? Đâu cần gián điệp?
– Suy nghĩ kiểu “mình ta gánh hết” đó sẽ hại chết nhóc đấy. Mà thôi, nghe không?
– Dạ, nghe ạ!
Không cần nghĩ gì nhiều nữa, con bé gật đầu lia lịa.
Sự khác biệt cơ bản giữa CIWS và ACIDS, theo Giao Long, là ở cách chúng thực hiện nhiệm vụ. các hệ thống CIWS của Trái đất có khả năng hoạt động hoàn toàn tự động, dù vẫn có chế độ “chạy cơm”, tức do người vận hành, nhưng phần lớn thời gian lại dùng ở kiểu máy điều khiển. Hầu hết, nếu không phải tất cả, hệ thống của chúng đều được tự động hóa, với các bó dây thay cho ống dẫn, bệ xoay thay cho bệ tháp pháo cồng kềnh, và radar dẫn bắn thế chỗ các biện pháp cổ điển. Thứ duy nhất nó không tự làm được là bảo trì, chưa con tàu nào tự nó có thể sửa chữa, lắp đạn hay sơn phết mấy thứ ấy cả. Con người vẫn phải tham gia vào các phân đoạn ấy. Tuy nhiên, vì tự động hóa cao, nó yêu cầu ít thuyền viên hơn. Vừa kinh tế, lại vừa giảm thiểu thiệt hại nhân mạng… nếu có.
Trong khi đó, hệ thống ACIDS, ngoại trừ cái giáp năng lượng bọc sát thân kia, về bản chất chỉ là bộ điều khiển hỏa lực tích hợp radar dẫn bắn, việc vận hành phần lớn dựa vào hệ thống cơ khí hơn là điện tử. Các tháp pháo của nó có trang bị máy tự động dẫn bắn, tuy nhiên không thể tự khởi động mà cần có người vận hành bên trong. Lại thêm, do loại hỏa lực được dùng trên tàu chiên của hai quốc gia chế tạo thứ này là pháo Oerlikon cỡ hai mươi ly với QF 2P “Pom pom” bốn mươi ly bố trí trên các bệ hai nòng liền kề, mỗi bệ mang tối đa bốn khẩu nên hiệu quả tác chiến thực tế không chuẩn như CIWS sử dụng pháo xoay sáu nòng tập trung hỏa lực. Nó yêu cầu một nhóm tác chiến riêng túc trực trong buồng điều khiển, cùng với đó là tổ đội ba tới năm người cho mỗi ụ phòng không, còn đối với hỏa lực hạng hai, con số có thể lên đến cả chục.
Dĩ nhiên, hiệu quả hoạt động của nó không thể bằng CIWS, chủ yếu vì lượng đạn dùng quá ít, tốc độ nhả đạn không mấy ấn tượng, và vẫn phải có người túc trực nạp đạn thêm. Tuy nhiên, so sánh nó với các cấu hình phòng không khác trên thế giới này, vốn thường dùng máy đo cự ly, loa AL và mắt thường để quan sát, phán đoán rồi ra lệnh, cũng như thao tác trực tiếp hoàn toàn bằng cơm thì thiết kế mới này vượt trội hơn nhiều. Có radar và máy tính đồng nghĩa với việc độ chính xác tăng vượt trội so với mắt thường, và cơ chế vận hành bằng máy cơ giúp tiết kiệm công sức hơn các bộ quay thủ công, vốn yêu cầu nhiều thành viên một cách không cần thiết.
– Tuy nhiên, thế độc quyền đó không còn nữa.
Khẽ nhắm mắt, Giao Long nói.
– Dạ?
– Ra ngoài rồi nói vậy.
Vừa khi thuyền trưởng dứt lời, Viêm thấy nó quay về lại thế giới thưc. Cảnh vật vẫn y như lúc nhỏ bị cuốn vào không gian kia, như thể thời gian ngoài này đã ngừng trôi. Nhưng nó dám cam đoan đã nói chuyện gần nửa tiếng với thuyền trưởng trong ấy, nó… Không biết nữa, Viêm dừng suy nghĩ. Đầu nó buốt, nhưng không bằng mấy ngón tay đã phát cóng vì cái lạnh quái đản. Phải cỡ hai chục độ, như ngồi phòng máy lạnh vậy. Nó run, cuốn chặt lấy vạt áo, không hề biết bên cạnh Hồng Ma đang cố nhịn cười.
Vừa khi ấy, Oa Lân quay sang nói:
– Thuyền trưởng, có điện báo từ chiếc Thanh Long! Phó Đô đốc Trung muốn biết đã tới lúc thay đổi đội hình chưa!
– Vẫn còn sớm. – Giao Long xua tay – Bây giờ, hừm… Lệnh tới toàn hạm đội, tăng độ cao lên thêm ba ngàn, bẻ lái năm độ sang mạn trái, tốc độ hành trình! Đạt độ cao cần thiết sẽ tiến hành đổi sang đường dọc! Lập tức thi hành!
– Rõ!
Nhận lệnh, Oa Lân quay lại, truyền đạt ý chỉ xuống bộ phận liên lạc. viêm không biết ai phụ trách dưới đó, nhưng chắc hẳn có người nhỉ?
Khi ấy, Giao Long ngoắc tay gọi Hồng Ma sang. Đồng thời, cô búng nhẹ ngón, lập tức không gian xung quanh họ giống như được bao phủ trong chiếc bong bóng, trong suốt nhưng cũng thật kỳ lạ. Từ đây nhìn ra, Viêm thấy mọi người như thể đứng yên, còn bản thân vẫn hoạt động bình thường. Nhỏ thử co duỗi ngón tay, không sao cả, trừ cảm giác thê cóng. Hồng Ma cũng có vẻ chẳng ảnh hưởng gì. Nó định hỏi, nhưng…
– Đừng nghịch ma pháp vậy chứ?
Bà già vừa nói, lại nhếch mép như cười mỉa.
– Nếu nói chuyện ồn ào, chúng ta sẽ gây ảnh hưởng tới người khác. Ít nhất cũng phải biết giữ phép lịch sự tối thiểu.
Giao Long đáp, dài dòng nhưng rõ ràng.
– Vậy à?
Cười trừ ra vẻ chịu thua, Hồng Ma bước tới, dựa lưng vào bên thành ngai. Cô chống chân phải xuống, bên trái co lên, để mũi giày chạm sàn, trong khi đôi tay khoanh lại dưới ngực, kiểu như muốn đẩy hai quả núi đồ sộ ấy đổ hẳn ra ngoài.
Khi này, Giao Long mới nói:
– Con bé biết về ACIDS rồi.
– Nói rồi à?
Hồng Ma không có vẻ gì ngạc nhiên.
– Trước sau cũng biết thôi.
– Dạ?
Và Viêm vẫn không thể theo kịp cuộc nói chuyện.
Xoa đầu nó, thuyền trưởng nói:
– Nãy ta có nói ACIDS là hàng độc của Albion với Columbia đúng chứ? Nhưng đó là chuyện của nửa thập kỷ trước. Bây giờ chúng ta đã có được đại khái loại công nghệ để chế tạo nó, thậm chí còn làm hơn, với khả năng tự động hóa các ụ phòng không tới mức gần tương đương với hàng bên “ấy”.
– Năm năm nghiên cứu, dùng cái tàu này làm chỗ thử, cuối cùng cũng thành công.
Mỉm cười, Hồng Ma bảo những chuyện nói ở đây chỉ có ba người họ biết, và cũng sẽ không đi sâu hơn, do hai cô lớn đều không chuyên về kỹ thuật. Tuy nhiên, việc Đế quốc chế tạo thành công phiên bản ACIDs riêng của mình là có thật. Thực tế họ đã chiêu mời được hai trong số các bộ não đứng đầu dự ác ấy, chính là hai cái tên ghi trên bản thiết kế của LBB2520, để tham gia nghiên cứu, phát triển một mô hình phòng ngự tầm gần, khả năng cơ động cao và không bị đông trước các cuộc tập kích bất ngờ của đối phương.
Phiên bản ACIDS của Đế quốc, được gọi bằng tên mã “Dự án Vòm lửa”, là hệ thống đánh chặn chủ động tầm cực gần, cự ly tác chiến lý tưởng từ sát mạn tới khoảng mười cây xung quanh. Trọng tâm của chương trình phát triển này là một bộ điều khiển hỏa lực bằng các máy tính cơ, giống như hai nước kia sử dụng, tuy nhiên thay vì tích hợp với radar thì nó lại dùng loa AL để vận hành. Nguồn âm thanh thu vào sẽ được “mã hóa” qua một chiếc đĩa than, sau đó đĩa này được máy “đọc” rồi chuyển sang dữ liệu, truyền vào cho bộ phận tính toán. Bên ấy sẽ xử lý các thông số, xuất kết quả rồi trực tiếp đưa ra cho các thành viên vùng điều hành, sĩ quan Chỉ huy phòng không và nhân sự vận hành trực tiếp tháp pháo.
Nó không đạt được sự tự động hóa cao như ACIDS, khi bản chất vẫn chỉ là bộ thiết bị tính toán dẫn bắn chứ không trực tiếp điều khiển việc khai hỏa. Giáp năng lượng bọc sát tàu cũng chỉ có thể chịu đạn pháo cỡ nòng nhỏ, không thể chống được pháo hạm tiêu chuẩn của tàu chiến lớn, và yếu trước bom bay. Tuy nhiên, dù không thực sự có tính năng sánh ngang cái kia, Dự án Vòm lửa lại đặc biệt thành công ở khâu cấu hình hỏa lực, do tháp pháo hai ụ sáu nòng bốn mươi ly nằm ngang, bố trí trục nòng giao nhau giúp đạn bắn ra không bay theo “phương thẳng” mà sẽ cắt tại điểm nào đó – theo lý thuyết.
Cũng nhờ dùng loại pháo này, tốc độ bắn nhanh hơn hẳn, đạt mức lý thuyết sáu ngàn viên mỗi phút. Do tất cả các nòng đều luân phiên xả, và một tháp có thể phun mười hai ngàn phát đạn, số đạn bắn thực tế cực kỳ cao. Đạn pháo cũng được thiết kế đặt trong các thùng lớn, dùng băng dài hàng trăm viên chứ không phải hộp đạn cong ba mươi phát như của pháo QF 2P nên tốc độ tác xạ nhanh chóng, cũng như sức hủy diệt vượt trội hơn hẳn Oerlikon.
Nhân sự bố trí trong tháp, được làm hình cái bát úp, có nhiệm vụ chủ yếu là… thay đạn, kiểm tra bảo trì xem có bắn giữa chừng mà kẹt không, điều chỉnh các van áp suất và thu dọn những vỏ đạn dư thừa rơi ra trong quá trình nã. Đạn pháo cỡ lớn, đường kính bốn mươi ly, dài ba mươi sáu phân bốn, gắn trong băng nhựa tổng hợp ba trăm viên và xếp vào thùng to để sát đất, khi cần nạp sẽ gắn như súng máy chứ không cắm cả hộp vào. Thứ này rất nặng nên thường được nâng bằng thang máy cho nhanh, chứ ngay cả thi quỷ đi đi lại lại cũng tốn thời gian, chưa kể vướng đường nữa.
Một trong các hạn chế lớn nhất của Vòm lửa so với ACIDS Columbia, và nhất là ACIDS Albion, chính là ở “góc” của nó. Các tháp pháo hai cụm sáu nòng chỉ có góc quay tổng cộng một trăm tám mươi độ, xoay từ phải sang trái và ngược lại, chứ không thể quay vòng tại chỗ. Kể cả được bố trí ở chỗ rộng rãi, thoáng đãng như giữa boong, chúng cũng chỉ quay qua quay lại tới thế. Ngay đến góc nâng cũng có vấn đề. Pháo sáu nòng của Dự án Vòm lửa chỉ có thể nâng từ âm mười tới tám mươi độ, trong khi của ACIDS lại lên đến chín mươi, cho nó lợi thế rất lớn về việc bắn thẳng lên trên hay xuống dưới, không chịu giới hạn về vị trí kẻ thù. Nguyên nhân do đâu Giao Long không nói, vì đó là tin tuyệt mật, còn Hồng Ma thì nhún vai đơn giản, “Ta không biết?”. Viêm cũng không định gặng hỏi, vì dù sao nó nghe cũng hiểu chữ được chữ mất, chẳng thể nào thông não nổi.
Và… Hình như nãy Viêm có nghe, Hồng Ma là cái chổ thử hệ thống này?
Ngoáy ngoáy tai, nó nghĩ, chắc mình nghe nhầm…
– Cóc có nhầm đâu nhóc!
Gõ đầu con bé cái cốp, Hồng Ma cười khì khì. Chỉ ngón cái vào mặt, cô ta nói:
– Nghĩ ta là ai hả? Ta đây chính là người đầu tiên được thử mọi loại trang thiết bị quân dụng mới nhất của Đế quốc, bất kể nó có tào lao bí đao ra sao đi nữa! Là Hồng Ma vĩ đại này đây, ga ha ha ha ha!
– Rồi rồi, vậy cậu từ bỏ luôn nhân tính chứ?
Hỏi câu ấy, Giao Long cười như con mèo, liếc mắt sang. Thấy vậy, Hồng ma bĩu môi, xấu ra mặt, bảo ngay:
– Ma cà rồng đồng bóng ở đây là gái đó, méo phải con này nhé! Đừng có lên cơn lại tạo không gian rồi gia tốc cho chậm lại, xong quăng cả đống dao hay táng cái xe vô mặt người ta nha!
– Rồi có ai gọi ra ngôi sao bạch kim để đám lòi phèo không ạ? – Viêm cũng tham gia cuộc chém gió quái đản luôn!
– Bậy, ta sẽ ném ngọc lục bảo! – Vỗ ngực, Hồng Ma vênh mũi lên hẳn – Không ai né được ngọc lục bảo cả!
– Và cả thế giới đều né được?
Giao Long nhún vai. Đoạn cô nói:
– Gần thiên đàng thêm chút rồi đó.
– Và giờ cô thành cha xứ luôn ạ?
– Có lẽ?
Chém gió một hồi, Hồng Ma cuối cùng cũng biết Viêm không lạ gì “những cuộc phiêu lưu kỳ quái” đó, cũng như đống “chế linh” từ đó ra. Dù Giao Long từng làm cô cười ngặt nghẽo với mớ hình chế đó, thì nói chuyện với một cái “chế” sống nó vẫn vui hơn nhiều.
Quay về vấn đề chính, thực tế thì từ năm năm trước, đế quốc đã thành công trong việc lắp đặt bộ máy tạo kết giới chủ động cho tàu chiến, và giờ nó là thứ bất kỳ chiến hạm tiêu chuẩn nào cũng được trang bị. Không chỉ chịu được phong lộ và đạn pháo nhỏ, loại này có thể chống cả lũ rồng bay, hay wyvern, tấn công bất chơt. Do cái giống ấy giờ thành động vật nguy hiểm sắp tuyệt chủng, đã góp mặt trong danh sách “sẽ biến mất trong tương lai gần”, nên tàu bay không được bắn bỏ nữa. Lớp giáp ngoài quá dễ bị xuyên, còn thân tàu không phải chỗ nào cũng boc kỹ, nên loại giáp năng lượng này thực sự hữu ích. Vòm lửa cũng đã được lắp trên các tàu chủ lực, nên nói về bí mật quân sự thì cũng chẳng còn gì to tát lắm, cái chính nhất hai bà không nói ra, còn nguyên lý chung chung thì đã công khai ở các hội chợ vũ khí từ lâu rồi.
Mỗi quốc gia đều co những bí mật phải che dấu, nhưng cũng có thứ phải phô ra cho thiên hạ thấy.
Xoa đầu Viêm, Hồng Ma hỏi nó:
– Nhóc nghĩ vì sao bọn ta lại nói nhóc biết?
– Dạ… Vì… Vì… Con không biết…
– Vì nó là kiến thức phổ thông.
Khẽ gục đầu xuống, với chất giọng đều đều vô cảm, Giao Long bảo:
– Viêm, việc sang thế giới khác, về bản chất, giống như nhập cơ tới một nơi mình chưa từng biết trước đây. Kiến thức của nhóc về thế giới này, tới giờ, chỉ là mấy chuyện linh tinh bọn ta nói cho, chứ không hề được đào tạo bài bản. Một người có thể sống mà không đi học, điều đó đúng, cơ mà ta không khuyến khích bỏ học đi cầm kiếm phá làng phá xóm đâu. Cái quan trọng là, không học thức vẫn đào tạo được, nhưng không có thường thức xã hội thì coi như bỏ. Vì một khi không biết vì về xã hội, cách nó vận hành, những quy luật, quy phạm và mấy cái linh tinh khác, nhóc sẽ hoàn toàn bơ vơ, lạc lõng, bị chính xã hội đào thải.
Những việc như thế không phải hiếm. Thuyền trưởng nói hiện tượng con cái được cha mẹ bao bọc quá mức đâm ra “ngu ngơ” trước một xã hội đầy thị phi, trắng đen lẫn lộn không phải lạ. Dù là Việt Nam hay Đế quốc, luôn có những trường hợp như thế, luôn là “con cưng của mẹ”. Cả thanh xuân nằm trong chiếc lồng, không biết tí gì về bên ngoài. Những kẻ như vậy như tờ giấy trắng, ai viết lên trước thì ngả theo. Bởi cách dạy con “úm” quá mức ấy mà một bộ phận thanh niên mới đâm ra ngu người, lao đầu theo đám phản động.
Sau cùng, “Thi Hoàng” chép miệng, nhìn con bé rồi bảo:
– Ngu cộng nhiệt tình bằng phá hoại, phương trình luôn đúng, tiên đề công nhận, không chứng minh.
– Nên phải phổ cập giáo dục từ giờ để đảm bảo nhóc không chơi ngu, rõ chửa?
Nhìn cái bản mặt cười toe toét của mụ chúa sừng ấy mà muốn đấm ghê!
Nhưng rồi, Viêm nguôi ngay.
Giao Long nói tiếp, các kiến thức về quân đội này tuy không phải thứ sẽ được dạy ra rả trên trường, nhưng trong một xã hội đề cao nghề lính và người chiến sĩ, không biết chuyện rất dễ bị xì xầm bàn tán. Cô không muốn con bé thành đối tượng cho đám bà tám trong điện, cũng chẳng muốn sau này nhỏ đi học sẽ bị bạn bè cô lập chỉ vì “chuyện quân đội cái gì cũng không biết”. Ví dụ đơn giản, thuyền trưởng nói văn hóa lính đối với dân Đế quốc cũng giống như thần tượng “kây póp”, “vi póp” của Việt Nam, và mấy đứa hâm mộ cuồng nhiệt ở cái lứa cấp hai chúng nó trẻ trâu cực kỳ.
Ngoài ra, những thứ hai người nói nó nghe về hệ thống ACIDS thực ra là các thông tin mà nếu chịu khó đặt mua báo giao mỗi sáng, ai cũng có thể biết. Vì hiện tại hệ thống đó là thứ người Columbia khoe mẽ nhiều nhất, tới mức các tàu có trang bị nó đều gọi là “khu trục hạm ACIDS”, “tuần dương hạm ACIDS”,… kiểu như muốn khoe cho toàn thế giới biết ACIDs là nhất, ngoài nó ra không có hệ thống phòng ngự tầm gần nào tốt hơn. Họ làm vậy để phô trương thanh thế, lấy khoa học kỹ thuật để bù đắp cho việc không sở hữu tiềm lực công nghiệp vươt trội so với các nước còn lại trong Hội đồng Bảo an, thậm chí có phần yếu hơn cả quốc gia xếp thứ sáu là Terra Méxca.
Đế quốc cũng không chịu lép vế, đã liên tục đầu tư cho Vòm lửa suốt mấy năm qua. Các thông tin cơ bản của hệ thống này – những điều Giao Long nói nãy giờ – đều được các phương tiện truyền thông đại chúng công khai, nhan nhản trên sách báo, thậm chí ra đường hỏi đứa con nít cấp một có khi còn nói vanh vách mọi điều nãy giờ. Thông tin ‘cơ bản”, phần nổi của tảng băng, là thứ bất cứ ai cũng có quyền tiếp cận. Đế quốc còn cho cả thế giới thấy nguyên lý chung, mời đại sứ những quốc gia đồng minh và cả đối địch tới chứng kiến hiệu quả mà không nề hà gì. Thực hiện thử nghiệm bắn đạn thật được phát sóng trực tiếp trên truyền hình cả nước, để người dân biết đất nước mình không hề kém cạnh bên ngoài.
Cuối cùng, Giao Long cũng thu lại vùng không gian ấy. bên ngoài, chỉ mới chưa đầy hai giây trôi qua, vậy mà Viêm cứ ngỡ đã lâu lắm rồi. Hương Hương vẫn chưa kịp nâng tàu lên, trong khi Oa Lân duy trì việc kiểm tra hoạt động. Vẫn lạnh run như thế, nhỏ nghĩ, đoạn lại quấn mình chặt hơn. Nhìn con bé vậy, thuyền trưởng thấy buồn cười. Cô hỏi nó:
– Đó giờ chưa đi máy bay à?
– Dạ… Chưa. – Viêm lắc đầu – Mà lần trước cũng có lạnh vầy đâu?
– Lúc bay, bọn ta duy trì nhiệt độ thấp để đảm bảo áp suất cân bằng, với mát mẻ dễ chịu thì dễ làm việc hơn là hầm như cái lò nhỉ?
Cúi người xuống, Hồng Ma thì thầm vô tai Viêm. Cô tiếp:
– Vả lại, thi quỷ thích lạnh, trong khi Hương Hương gốc vùng ôn đới, Masami có thân nhiệt rất cao, nên huề cả làng thôi! Mộc Ma thì, nhóc thấy đó, nó mặc thiệt ra tới bốn cái áo lót dưới bộ quân phục, đeo găng với vớ kín mít nên không lạnh đâu! Chỉ có nhóc sắp thành cây kem thôi, ga ha ha ha!
– Ư ư…
– Và ta cũng nể cái sự ‘thông minh” của con lắm đấy.
Chống cằm, Giao Long nheo mắt, trông như đang cười. Thuyền trưởng trông xuống Viêm như Hoàng đế nhìn đám dân đen, rồi bảo:
– Đã lạnh còn chui sát vô ta, bảo sao chả cóng? Có biết người ta lạnh như nước đá không mà cứ xích vô vậy hả?
– A…
Há mồm to như định chờ ruồi, Viêm muốn la lên mà chẳng thể, vì lạnh quá đơ luôn cái bản mặt. Chơi ngu rồi! Bảo sao càng quấn càng rét!
Thấy thế, thuyền trưởng chỉ buông cho đúng hai câu. hai câu mà hơn cả lấy sáu nòng xả đạn vô tim.
– Nói ngu dốt cộng nhiệt tình bằng phá hoại, đâu có sai? Bảo dân trí thấp lại tự ái!