– Ư… Hử…?
Giật mình tỉnh giấc giữa đêm, Viêm không hiểu sao trời rõ ràng mát rượi mà người nhỏ lại thấy nóng tới vậy. Cửa sổ vẫn mở toang, gió thổi lồng lộng, thế mà người nó lại ướt đẫm mồ hôi? Nhỏ nằm im, toàn thân nặng trĩu, mái tóc đen dài dính bết cả vào khuôn mặt đầm đìa mồ hôi mẹ mồ hôi cha. Toàn thân cứng đờ, hai tay tê rần rần, con bé thậm chí không thể đưa tay lên quẹt cho đỡ ướt được. Nó nằm đó, trong màn đêm, với nguồn sáng duy nhất là ánh trăng bàng bạc từ cửa sổ hắt vào. Mồ hôi đổ ra như tắm, ướt nhẹp hết cả chiếc gối kê đầu và cái áo nó mặc. Quái, chiếc mền trên người bây giờ sao lại hầm và nặng đến thế chứ?
Vả lại, hình như có cái gì đó… đè người mình?
Nghĩ vậy, tự dưng Viêm nổi hết da gà. Trong phòng này, có cái thứ gì có thể đè mình trừ cu nhóc kia và… con Mộc Ma? Nó không muốn nghĩ tới điều đó, nhưng… Viêm nhớ rõ, trước khi đi ngủ, nhỏ nằm mé gần tường. Bộ ván kê đầu vào tường, chiều dài vừa in với vách phòng, tức là bốn thước hay bốn mét Trái đất. Cửa sổ đặt ngay trên đầu ván, tức là nhỏ chỉ cần nhìn lên là thấy ngay ai đang đè mình.
Cái võng lại móc vào khối gỗ dôi ra của thanh đỡ ván, nằm song song với mặt tường dối diện cửa, thành ra việc nhóc Thiên bò qua đây là hoàn toàn không thể. Lại thêm, dù nó không tỏa tử khí của mấy cái xác thì thằng nhỏ ấy cũng đã lạnh ngắt rồi, nếu nó nằm đè lên nữa thì đáng ra Viêm phải mát như nằm phòng máy lạnh chứ, đằng này cứ như chui tọt vô buồng, đóng hết cửa sổ rồi trùm mền bông giữa trưa hè ấy! Nếu vậy, chỉ còn một đứa thôi. Viêm tặc lưỡi, không thể nào lầm được…
Quay sang nhìn, mọi thứ đúng hệt như Viêm đã lo. Mộc Ma ngủ lăn quay ra, cái người nhỏ ấy nằm đè lên Viêm, tay trái quàng qua ôm chặt thân nhỏ. Viêm lúc này bị cuộn tròn trong cái mền, trong khi Mộc Ma tung hết gối ra, tay phải kê đầu, tay trái và hai chân gác hẳn lên bạn mình. Nó ngủ khò khò, cái bịt măt bên trái hơi xẹ xuống dưới, để lộ ra hàng lông mi nhỏ xíu, bị ép sát cả vào mí mắt. Hôm qua, mà Viêm cũng không biết đích xác đã qua ngày mới chưa, Mộc Ma không hề nói gì về con mắt “chột” này, như thể nó muốn giấu đi.
Mà khoan, có thật là nó không nói? Viêm nhớ không nổi, đầu óc nó giờ đang quay mòng mòng hết cả lên. Nhỏ thấy hơi choáng, có lẽ tại chưa hợp đất đai, khí hậu ở đây. Mà cũng có lẽ do con mắm chột kia ôm cứng ngắc rồi! Hầm quá! Tránh ra coi con kia! Viêm muốn hét lên, nhưng cả ngực nó bị tay Mộc Ma đè lên, tới thở còn khó chứ đừng nói la làng. Làm sao giờ? Nằm thế này thì sao mà ngủ được cơ chứ? Mệt, buồn ngủ, choáng váng, lại nóng như cái lò nữa, bây giờ chỉ cần được là nó tung ra ngay. Mà quái, sao nhỏ đầu đỏ ấy lại khỏe đến thế cơ chứ? Nó ghì chặt đến nỗi Viêm tưởng toàn thân mình đang bị con gì nặng lắm đè lên, chứ không phải là mắm chột trạc tuổi kia nữa!
Viêm không biết, trong lúc nó còn đang cựa quậy vì bị ôm như cái gối thì ngoài kia, trên mấy cành cây của khu vườn lớn, đối diện cửa sổ phòng, Oa Lân đang canh chừng bọn nó. Mà cũng không phải cô ta canh thật, ban nãy do chịu không nổi hai sếp lớn “đánh đêm” rầm rầm, mà phòng cô lại ngay bên dưới hai người đó, nên mới lên xin phép rời tàu dạo mát chút. Oa Lân vẫn nhớ cái bản mặt tỉnh như ruồi của hai vị chỉ huy khi thấy cô vào phòng – cô không cần gõ nếu có Hồng Ma trong đó – và chứng kiến hết cảnh hai người họ đang vật lộn nhau chỉ vì không thống nhất được kế hoạch cho ba ngày tới, “Dù gì thì cũng quen rồi”, cô tự an ủi mình, “Ít ra lần này họ chưa lột đồ nhau…”. Lang thang nãy giờ, cô mò hẳn vào tòa chánh điện. Không phải lỗ thủng an ninh, bởi lẽ, ai dám cản cô, nhân vật thứ hai dưới trướng Giao-Hồng chứ?
Và cũng vì một lẽ, ở điện Cây Quế này, số người có khả năng cản được Oa Lân chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Đứng trên ngọn cây cao chót vót chỉ bằng một nửa chiếc ủng da quân đội, Oa Lân khẽ kéo ống tay áo lên. Cô mặc cái áo bành tô này từ khi trở thành chỉ huy của Quân đoàn Đổ bộ đường không 2, rồi được Hồng Ma trực tiếp đưa lên làm thuyền phó dù trước đó cô hoàn toàn không thuộc về Hải hay Không quân. Lực lượng đổ bộ của cô là một quân chủng độc lập, và chỉ đi nhờ tàu của Không quân thôi, nên khi ấy thật sự bản thân cũng sốc lắm chứ. Nhưng nghĩ lại, có lẽ vì mối quan hệ giữa hai bên được coi là tốt nhất trong bốn quân chủng lớn, bản thân mình cũng từng có kinh nghiệm chỉ huy tàu đổ bộ rồi nên Hồng Ma mới gọi chăng? Mà dù thế nào thì, rõ ràng cái quyết định đồng ý thuyên chuyển ấy quá ư…
Điên rồ!
Suốt ba năm từ khi lên tàu, thực sự Oa Lân chưa có ngày nào được ngủ thẳng giấc. Khi còn ở bên đổ bộ, dù tập huấn rất mệt nhưng thời gian nghỉ ngơi khá nhiều, sinh hoạt văn nghệ hơi ít nhưng vui, làm tinh thần làm việc cũng sảng khoái hơn hẳn. Còn trên tàu, nếu không phải xử lý hàng núi giấy tờ ngày này qua ngày nọ chưa hết thì còn phải kiểm tra nồi hơi, lò đốt, buồng chứa nhiên liệu, đạn được, nhà ăn, hệ thống áp suất,… và trên hết là bị đày chẳng khác gì làm con culi của Hồng Ma!
Buổi sáng bị xoay như dế, đến tối ngủ cũng không xong khi hai bà phòng trên đêm nào cũng như dàn quân đánh biển người ầm ầm, tới nỗi Oa Lân thường phải ôm quan tài chạy qua phòng Masami ngủ ké, chứ chỗ con Hương Hương thì chẳng khác gì cái tế đàn cả! Có những đêm cô phải đu thẳng xuống phòng máy ngủ nhờ, dù dưới đó nóng hâm hấp và tiếng máy cũng ồn kinh dị nhưng ít ra vẫn đỡ hơn nằm trong cái phòng vừa ồn vừa không biết khi nào trần sập. Nhưng kể cả vậy, trên tàu, không nơi nào thực sự an toàn. Khu vực dành cho thuyền viên nhét chật bốn quan tài một buồng, còn chỗ của lực lượng đổ bộ – Hồng Ma vác hẳn hai lữ đoàn theo – thì đầy mùi dầu nhớt và thuốc súng, chưa kể mấy thánh thần dưới đó ở dơ như heo!
Đứng trên ngọn cây quế đại thụ cao chót vót, Oa Lân hướng ánh mắt đỏ au chằm chằm vào gian phòng lớn, nơi Viêm đang cố cựa quậy. Thật sự rất nóng, cô biết, nhưng bây giờ không thể vào đó ngay được. Hồng Ma không cho phép cô can thiệp quá nhiều vào đời tư của hai đứa nhỏ, đó là lệnh được đưa ra trước khi sếp cho phép cô rời tàu. Nhưng không sao, dù ở xa, cô vẫn có thể giải quyết. Không phải nhờ hậu duệ hay quan hệ mà Oa Lân trở thành chỉ huy của Quân đoàn 2, cô mỉm cười. Con mắt trái, thứ luôn lim dim vì buồn ngủ, bỗng mở to ra, trừng trừng như thể người lính thất thế nhìn trối trân vào chiếc lưỡi lê lạnh ngắt sắp đâm vào đầu mình. Mắt cô chảy máu, rồi từng chút một, nhãn cầu màu hồng ngọc trở thành sắc đỏ máu, với một chữ thập ngoặc màu đen đứng thẳng bên trong, nằm chính giữa một vòng tròn đen thẫm.
Giơ tay trái lên trước, Oa Lân xoay cổ tay răng rắc, co mấy ngón khẳng khiu lại, làm như thể đang cầm súng lục vậy. Động tác của cô bây giờ trông y hệt người sĩ quan cầm súng lục chuẩn bị bắn bỏ tù binh hay lính phản loạn, bởi lẽ cô chúi họng “súng” xuống và hơi ngước mặt lên, khiến người con gái ấy lúc này trông trịch thượng và lạnh lẽo vô cùng. Chầm chậm… chầm chậm… Cô bóp cò.
– Ngủ đi.
Cất giọng thỏ thẻ đầy lạnh lùng, Oa Lân nhắm mắt lại. Cùng lúc đó, tuy đang thấy rất khó chịu vì nóng và nhớp nháp nhưng Viêm bỗng thấy đầu mình nhói lên. Nhỏ không để tâm lắm, nhưng ngay sau đó, nó thấy người mình bỗng đỡ nóng hơn. Từ cơ thể, không chỉ là sự nóng bức, mà cả mồ hôi có vẻ cũng dừng tuôn rồi. Nó thấy mí mắt mình nặng trĩu, hai mắt tối dần đi. Đầu óc nặng trĩu như đeo chì, đôi mắt chỉ muốn nhắm tịt lại, thêm cả gió núi thổi mát rượi, chưa đầy một phút sau con bé đã lăn quay ra ngủ ngon lành. Nó không hề biết, ngoài kia, Oa Lân đã niệm phép lên người mình.
Viu… Viu…
Gió lên rồi.
Đứng trên ngọn quế, Oa Lân tận hưởng hoàn toàn cái mát tuyệt vời mà gió núi Thiên Cẩm mang đến hằng đêm. Vùng Thất Sơn suốt một thế kỷ qua vẫn chưa khai phá gì quá nhiều, nên khác với các đô thị đông đúc vùng Phiên An hay mấy khu công nghiệp mới xây ở Nam Vang, nơi này vẫn còn tự nhiên lắm. Gió thổi đìu hiu, mang theo mùi thơm của cây thốt nốt rừng, thứ cây đã mọc lan từ U Minh Thượng về tới vùng núi Thất Sơn từ biết bao năm qua. Lắm lúc, Oa Lân cũng không nhớ mình đang ở đâu. Thất Sơn về tổng thể vẫn là vùng mấy mươi quả núi đột nhiên mọc lên sừng sững giữa vùng ruộng lúa ngập nước, nằm dài trên vùng đất trung lập phân chia hai lãnh thổ U Minh Thượng và U Minh Hạ. Khu đất này, cô nhủ thầm, ở “bên kia” không biết có còn hoang sơ vầy không, hay đô thị hóa đã phá tan nát cảnh quan rồi?
Vẫn mặc bộ quân phục trên người – dường như các thi quỷ chẳng bao giờ thay đồ – Oa Lân đứng đó, tận hưởng làn gió đêm cọ nhẹ lên làn da đã tái xanh màu chết chóc, để gió xốc tung mái tóc đen gợn sóng vào không trung, tựa như đám mây đen chầm chậm trôi sang, che hết cả ánh trăng màu bạc. Gió thổi mạnh dần, làm chiếc áo bành tô da xanh đen hơi động đậy.
Cổ áo có chút lắc lư, dù hai chiếc huy to vẫn được cài cứng lại. Hàng khuy to bên phải, phía cô gài hai vạt áo, hơi lung lay, xem chừng phải dùng linh lực giữ lại mới được. Cái áo này cô đã mặc từ khi ở bên quân đổ bộ rồi, là đồng phục tiêu chuẩn của các thi quỷ bên đó. Nó khá rộng, có những hai hàng cúc áo và lỗ gài tương ứng, nhưng thường cô chỉ dùng hàng cúc bên phải, có lẽ vì thuận tay hơn chăng? Bản thân cô cũng không biết, không có quy định cụ thể nào về hướng cài, nên mạnh ai nấy mặc, miễn sao thấy thuận là được. Hình như Đế quốc Liên hiệp khá thoải mái trong chuyện cài khuy đồng phục này, thậm chí còn có chỉ thị cấp trên không được can thiệp vào việc đó trừ khi phải diễu binh hay đón tiếp các vị tai to mặt lớn nào thôi.
Nghĩ thế nào, đột nhiên Oa Lân quay lưng lại. Khuôn viên bên trong dãy nhà ở khá rộng, thậm chí khoảng cách giữa hai dãy nhà đối diện nhau chắc cũng phải lên tới ba trăm thước. Vậy mới biết cái tường bao ngoài nó to và vũ trang kinh dị đến nhường nào! Lúc Mộc Ma dẫn Viêm tới, cô không ở đó nhưng có nghe Hồng Ma kể lại là khi ấy, dù đứng sau bức tường thành nhưng bà già đó vẫn biết con bé nghĩ khoảng cách giữa các tháp là mười thước.
Thật sự giữa mỗi tháp đúng là mười thước thôi, nhưng do các tháp pháo thực tế, chứ không phải là cái tòa bát giác sừng sững làm bệ đỡ cho chúng, lại xây ở trung tâm mấy đài ấy nên khoảng cách thực tế giữa mỗi ụ lên đến sáu mươi thước, không để đường kính từng ụ. Xây to như vậy thực tế để làm gì thì Oa Lân chưa bao giờ buồn tìm hiểu, chỉ thấy cái phong cách kiến trúc và lối tư duy đó quá buồn cười. Pháo đài thủ hộ thì to như cái lu, trong khi đoạn tường thành lại ngắn cũn cỡn ra á? Không biết vị kiến trúc sư đại tài nào lại có thể cho ra lò một thiết kế phủ định mọi lý thuyết phòng ngự của cả bát trận đồ và pháo đài Vauban như vậy cơ chứ?
Mà thôi, cái dân xứ này nghĩ gì tới Trời còn thua cơ mà!
Chưa bao giờ người Giao xứ U Minh khiến Oa Lân hết bất ngờ cả. Cô vẫn nhớ như in thời xưa, khi chưa có súng ống, tàu bay như bây giờ, họ đi trên mấy chiếc thuyền mành một cột buồm mà càn mà quét hết cả vùng duyên hải phía vịnh Xiêm La bên dưới này, đến cả quần đảo Mã Lai Á xa xôi. Mấy lần đó Oa Lân có theo Hồng Ma đi quậy, hai người đứng trên trời chờ quân binh các bên chém giết nhau đã đời xong mới sà xuống “tuyển quân”, kỳ thực là Hồng Ma tạo thêm thi quỷ. Người Giao có tục hỏa táng, nên thành ra hai người phải nhanh chóng hốt xác trước khi bị bên kia đem đi. Mà nhờ mấy lần đó, cô mới thấy được cái chiến thuật “thuyền lên bờ” của họ kinh dị tới thế nào…
“Giờ họ vẫn xài thứ thuyền ấy nhỉ? Đúng là truyền thống ngàn đời mà!”
Mỉm cười, Oa Lân đạp nhẹ chân trái lên ngọn cây. Tuy chỉ là cú giẫm nhẹ như không, cô lại tung mình một phát bay vút lên cao hàng trăm thước. Bên dưới, cả tán cây bị áp lực từ cú đạp ép cho nằm rạp xuống, lá xanh rụng vương vãi khắp sân nhà. Trên không, hai vạt áo cô tung lên như đôi cánh, xòe rộng ra giữa bầu trời. Khác hẳn với những chiếc áo dài, rộng như cái mền quấn quanh người truyền thống, áo bành tô quân đội kiểu Tây được xẻ khá cao ở vạt sau, lại thêm phía trước cài khuy hai hàng nên khá thoải mái, nên chúng dễ dàng tung xòe hẳn ra hai bên chứ không phải dính liền như áo bào của tướng lĩnh khi xưa nữa.
Là thi quỷ, tuy không mạnh bằng Giao Long nhưng Oa Lân cũng không phải loại vừa. Chỉ một cái nhún chân mà cô đã vọt lên tới lưng chừng trời, vượt quá cái ngọn tháp quét vôi trắng ấy đến cả ngàn thước. Cô lơ lửng, không rơi xuống mà cũng không bay đi đâu, chỉ đứng yên giữa tầng không như thể nơi đó là sàn gạch vậy. Gió vẫn hất tung mái tóc gợn sóng kia, và ở độ cao hơn một ngàn sáu trăm thước cách mặt biển này, lại giữa bốn bề không gian mênh mông trống trải, gió tạt vào mặt cô thậm chí còn dữ hơn khi ở dưới chánh điện. Từng làn, từng làn gió rét quét mạnh qua, cơ hồ như ngàn vạn lưỡi dao cứa vào làn da đã xanh ngắt của giống thi quỷ, tạt qua đôi bờ môi tím tái với chiếc nanh nhọn hoắt nhú ra ngoài.
Từ từ, cô biến thân. Cứ mỗi lần như vậy, mắt phải, con mắt đã bị Hồng Ma lấy đi khi Oa Lân còn sống, lại nhói lên dữ dội. Cô không bao giờ quên cái thời khắc đó, khi Hồng Ma giết chết và biến mình thành thi quỷ dưới quyền cô ta. Bản thân Oa Lân lúc đó cực kỳ hận Hồng Ma, nhưng dù đã có sức mạnh này thì cô vẫn không thể giết được mụ quỷ lửa đó vì cái phong ấn cô ta cài vào người mình. Trong suốt mấy chục năm đầu, Oa Lân luôn có ý chống đối chủ, thậm chí còn chạy sang các quốc gia khác tìm cách bỏ ấn chú, nhưng tất cả đều phí công vô ích.
Phong ấn của Hồng Ma thuộc về một thời đại đã mất, một chủng tộc cổ xưa mà khi ấy, cô ta là người cuối cùng còn “sống”. Thực sự Oa Lân khi đó không biết Hồng Ma có được coi là “sống” không, khi biết cô ta đã tự hủy nhục thân và hòa linh hồn mình làm một với “Huyền Viêm”. Không có nhiều ghi chép hay thậm chí là truyền thuyết về tộc đó, người ta chỉ biết họ là tổ tiên của tất cả các tộc á nhân có sừng hiện đang tồn tại trên siêu đại lục này. Tất cả mọi loài đều bắt nguồn từ chủng tộc thần bí ấy, tuy nhiên không một tài liệu nào thực sự ghi chép lại nền văn minh của họ mà chỉ được chép dưới dạng truyền thuyết. Thậm chí sự tồn tại của Hồng Ma lúc đó cũng mơ hồ. Cô nhớ, khi mình nói với người ta về Hồng Ma, ai cũng bất ngờ khi biết người đàn bà ấy là kẻ cuối cùng sót lại.
Nhưng giờ chuyện đó đâu có quan trọng?
Sống cùng Hồng Ma hàng trăm năm, di chuyển khắp nơi, Oa Lân mới thấy cô ta không khác gì một tên… đánh thuê kiêm trộm xác! Ngày ngày, Hồng Ma cùng binh đoàn thi quỷ của mình hành quân tới khắp mọi lãnh địa, thậm chí ra khỏi Hồng Bàng, lúc đó bị đặt thành Giao Châu, chỉ để tìm người sẵn sàng bỏ tiền ra thuê họ đánh trận. Đổi lại, binh sĩ tử trận đều phải giao lại cho họ.
Cứ như vậy, Hồng Ma vừa đánh trận vừa tích lũy quân số, suốt một ngàn hai trăm năm dài chỉ để chờ tới ngày đó.
Khi Mạc Vương và quân U Minh tiến đánh, Hồng Ma cũng đem quân hỗ trợ nhà Mạc Phạm, trực tiếp dẫn cái đội quân trời đánh không chết kia xông pha những trận nguy hiểm nhất để bào mòn địch. Khi ấy cô mới hiểu, Hồng Ma đã luôn biết phía nhà Hạ có các thi vu chuyên điều khiển xác nhưng trình độ không bằng, nên mới tập trung đội quân thi quỷ hùng mạnh đó để đánh một đòn dứt điểm. Vì là thi quỷ gốc yêu quái, hay như nhiều người tôn kính gọi là “linh thú”, Oa Lân dễ dàng áp đảo được các thi quỷ không có ý chí của nhà Hạ, thậm chí còn cho Hồng Ma cưỡi trên lưng để đánh nữa. Hồng Ma, hơn một thiên niên kỷ, đã nhẫn nhịn tích quân và chờ ngày đoạt lại quê hương từ tay giặc Bắc!
Miên man nghĩ, Oa Lân từng bước biến hình. Đầu cô thay đổi trước tiên, khuôn mặt thanh tú giờ trở nên giống như rồng với hàm răng sắc nhọn đầy uy hiếp, chiếc mũi to của sư tử, đôi mắt trừng trừng như quỷ dữ với con mắt phải nhắm nghiềm cùng vết sẹo dài chạy dọc qua, trong khi mắt trái trừng trừng lồi hẳn ra, hiện rõ màu đỏ với chiếc vòng và chữ thập ngoặc đen phía trong.
Trán cô hóa to như trán lạc đà, đôi tai trở nên giống tai sói với vành nhọn hoắt, vểnh lên cao. Mái tóc dài gợn sóng trông lúc nào cũng như nùi rong biển giờ trở nên cứng cáp hơn, kéo dài từ đầu xuống thân như chiếc bờm to. Từ mái tóc ấy, hai chiếc sừng hươu màu ngọc lục bảo mọc lên, vươn dài ra sau. Dưới ánh trăng bạc đêm nay, hai khối ngọc lấp lánh màu lục ấy càng trở nên đẹp đẽ lạ thường, với những đốm sáng li ti bên trong và các đỉnh chóp tỏa sáng rực sỡ.
Tiếp sau sự biến hình ấy, tới người cô cũng thay đổi theo. Cơ thể giấu trong chiếc áo bành tô to như cái chăn ấy dần hóa thành thân ngựa, trên người phủ lớp vảy ngọc lục bảo óng ánh màu xanh lá. Tay chân cô hóa dần thành chân hổ to, chắc nịch, với chiếc áo ngoài biến dần thành vảy và chiếc đuôi trông tựa đuôi bò. Nhưng thay vì bốn chân hổ bình thường, bộ móng vuốt bên dưới lại biến đổi hơn, trở thành thứ giống như vuốt rồng với lớp vảy xanh lục và bốn móng nhọn hoắt, cong cong như lưỡi câu. Không những vậy, chúng còn được bao bọc trong ngọn lửa đỏ thẫm, cháy phừng phừng nhưng lại không hề làm hại gì tới cơ thể.
Oa Lân cúi thấp đầu xuống, làm bả vai hơi nhô cao lên. Lúc này, từ chỗ đó, da thịt cô rách toạc ra, nhường chỗ cho hai khối ngọc lục bảo lớn, nhọn hoắt đâm xuyên qua. Trên lưng, cô bắt đầu mọc lên hai hàng ngọc nhọn, chạy dài từ cổ tới đùi sau, nhưng tránh phần xương sống ra. Khác với hai khối lớn trên vai vốn trông như mọc thẳng từ xương ra, mấy hàng ngọc này lại giống những chiếc vảy đè lên nhau mà nhô cao hơn. Thậm chí, cả phần chóp đuôi cũng được bọc trong thứ ngọc màu xanh lá mạ ấy.
Biến hình đã xong. Chúc đầu xuống đất, Oa Lân gầm gừ từng hồi. Chuyện này chưa bao giờ dễ chịu cả! Cô nguyền rủa tát cả lũ ngu xuẩn bảo thay đổi hình dáng dễ chịu lắm. Chết tiệt, chúng nó cứ thử cảm giác hộp sọ mình biến dạng, xương tự nắn từng khúc không theo quy tắc gì cả, toàn thân mọc lên mấy cái vảy và ngọc quý từ xương bả vai đâm xuyên da thịt xem! Đổ máu đấy! Vậy mà… Oa Lân thực sự ghen tị với các thi quỷ có nguồn gốc nhân loại hay á nhân như thuyền trưởng, họ không bị cái bất lợi này. Mà từ khi thành thi quỷ, cảm giác đau cũng đỡ lắm rồi. Giờ nó chỉ nhức và hơi ngứa thôi, chứ hồi còn sống… Trời ạ! Cô không muốn nhớ tới, nhất là cái “hiệu ứng tặng kèm” mỗi lần hóa thú xong là trần như nhộng nữa chứ!
Thở hồng hộc vài cái cho đỡ mệt, Oa Lân lại ngẩng đầu lên. Khi hóa thú, cơ thể cô trở nên to hơn gấp mấy lần, thậm chí ngang một con trâu mộng khỏe mạnh. Nhưng nhờ kết giới giăng quanh mình, cái “chiêu bị động” mỗi lần biến thân mà không ai có thể phát hiện ra cô. Hay ít nhất là Oa Lân nghĩ thế, bởi lẽ Hồng Ma, với cái phong ấn đáng nguyền rủa đó, hoàn toàn có thể tóm được mình dù có chạy tới chân trời góc bể.
Nhưng cô cũng không bận tâm mấy. Cũng hơn chục năm rồi không biến về hình dạng này, hôm nay Oa Lân phải thả cửa đi chơi, chứ không thể nào cứ tự giam mình trên tàu mãi được! Thậm chí, chạy lên núi, kiếm cái cây nào cao cao rồi đứng đó ngủ luôn cũng tốt! Loài cô vốn có khả năng ngủ đứng mà, chỉ khi trở thành thi quỷ cô mới phải nằm trong quan tài, vì Hồng Ma nói… thi quỷ phải ngủ trong quan tài mới hợp đạo!
“Mà nếu vậy thì nhóc Thiên sao lại ngủ ngoài chứ?”, Oa Lân nghĩ thầm.
– Vì nó mạnh chứ sao.
– Gì?
Dửng dưng đáp mà không hề quay lại, Oa Lân biết suy nghĩ của mình vừa bị bà sếp tóc đỏ chết tiệt đó đọc cả. Chuyện này cũng như hôm kia, khi con bé Viêm vừa đặt chân lên tàu. Hồng Ma dùng tiếng Valhöll để chọc nó vụ cấp độ này nọ, kỳ thực không phải cô cần nó hiểu, mà chọc vì cô ta biết con nhóc đó biết được dăm ba chữ tiếng “Đức”, tức Valhöll bên kia, trong đầu. Thế giới đó cũng có tivi, nên chuyện này không lạ gì. Và cái nhướng mày kinh ngạc của nhỏ không phải vì nó hiểu Hồng Ma nói gì, mà vì nó nhận ra cô ta nói “tiếng Đức”, dù nhỏ chỉ biết được vài chữ qua phim ảnh thôi. Như vậy, thế giới bên đó coi bộ đã phát triển hơn rất nhiều trong việc truyền thông, vì họ có tivi phát được cả hình lẫn tiếng chứ không phải cái hộp chỉ chạy được hình đen trắng và câm như hến như bên này.
– Nghĩ nhiều làm gì, ta đọc hết cả rồi.
Hồng Ma nói, đoạn cô hơi cúi đầu xuống, ghé sát vào đầu Oa Lân. Gần sát như vậy, Oa Lân bây giờ mới cảm nhận được… Hồng Ma lúc này không phải là Hồng Ma bình thường. Kích thước đầu không đúng, kể cả khi cô ta vốn cao to hơn hẳn người thường. Tiếng nói cũng không giống mọi ngày, nó trầm và đục hơn hẳn. Khác với nhiều chủng loài, Hồng Ma thay đổi âm điệu qua từng dạng biến hình, và cái âm sắc này… Ực! Oa Lân khẽ nuốt nước bọt, hai chân trước khẽ cọ cọ vào nhau. Nếu thật sự là như vậy, vậy thì Hồng Ma bây giờ…
Đánh liều, Oa Lân quay lại nhìn. Và không ngoài dự đoán, mụ đầu đỏ ấy bây giờ đã trở thành…
Một con rồng ba đầu khổng lồ!
Đã bao nhiêu mùa xuân rồi Oa Lân mới được thấy lại hình dáng kinh dị này? Hình như là… từ cái ngày hai người đánh nhau thì phải? Hồng Ma chỉ dùng hình dạng này đúng một lần ấy trong suốt hơn hai ngàn năm, và giờ cô ta lại dùng tới nó sao? Thực sự, Oa Lân rất ngạc nhiên khi thấy Hồng Ma trong hình dạng này. Một con rồng phương Tây, đúng kiểu phương Tây, với ba chiếc đầu hình ram giác, hàm răng nhọn, mấy cặp máu đỏ ngầu màu máu tươi với sáu vòng đen đồng tâm và những chiếc sừng to, xoắn về sau như sừng linh dương khiến cô không thể nào không run sợ được.
Ký ức kinh hoàng ấy vẫn còn hiện rõ trong đầu cô, khi ngày đó Hồng Ma tấn công trong hình dạng này. Ban đầu cô ta chỉ to hơn con cá sấu chút thôi, nhưng sau đó lại hóa lớn, lớn dần, lớn dần, đến mức sải cánh ấy có thể che khuất cả bầu trời. Oa Lân khi đó vẫn còn nhỏ, nên cô không biết đích xác Hồng Ma đã to thế nào, nhưng bốn chiếc chân to cao cả cây thốt nốt già, to như cái ao ấy chỉ cần đạp phát thôi là Oa Lân vỡ bụng, nát xương, chết ngay tức khắc rồi. Nhưng cô ta không chịu. Con rồng ác độc đó muốn đùa với Oa Lân thêm chút nữa, thậm chí còn dùng móng mình mà phá đi mắt phải của cô. Nhưng đó là khi ấy, còn bây giờ, khi cô đã có gan để đối diện, Oa Lân muốn một lần nữa nhìn thật rõ xem con quái vật kia to tới cỡ nào.
Trong màn đêm, thực sự rất khó phán đoán kích cỡ của cái thứ sinh vật đen như than đó. Nhưng nhờ lớp vảy rồng lúc nào trông cũng bóng dầu và phần bụng màu mốc vàng, Oa Lân có thể thấy được một phần Hồng Ma. Cô ước tính, mỗi chiếc đầu phải dài cỡ mười thước, to như cái xà lan chở cát, với mỗi miệng phải dài đến phân nửa hộp sọ, còn cổ mỗi chiếc phải dài tới hàng chục, thậm chí trăm thước chứ không ít. Trên mỗi đầu, Oa Lân nhìn kỹ, thì ngoài cặp mắt đỏ au ra, cô ta còn có thêm con mắt thứ ba màu máu, bên trong có sáu vòng đen đồng tâm nữa. Vậy là Hồng Ma trong dạng này có những chín mắt á? Oa Lân khẽ rùng mình, như vậy thì tầm nhìn của cô ấy là bao nhiêu cơ chứ?
Khác với những con rồng phương Tây họ từng gặp trong các chuyến du ngoạn, Hồng Ma to một cách lố bịch, đến nỗi nếu so cùng đám rồng khác thì chúng như lũ trẻ con vây quanh cô ta vậy. Cặp cánh rồng lớn dày cộm, phủ đầy vảy cứ thỉnh thoảng lại vỗ “phạch… phạch…”, tạo thành hàng chục cơn gió mạnh đánh xuống chánh diện và dạt cả ra hai bên. Bốn cái chân cực to, có lẽ lớn hơn cả pháo chính của Hồng Ma bây giờ, duỗi hết xuống dưới, mỗi chân lại có năm móng đen tuyền, sắc lẻm như dao cạo. Oa Lân nhớ mà! Chính mấy cái móng này khi đó đã quăng cô như món đồ chơi, còn cào mất mắt phải nữa! Phía sau, dù nhìn không rõ nhưng cô vẫn thấy lờ mờ hai cái đuôi dài ngoằn, ngoe nguẩy như đuôi cá sấu đang bơi. Lúc này, Oa Lân mới hỏi:
– Tự nhiên biến thành rồng chi vậy? Khè thiên hạ à?
– Trừ em ra chả ai thấy đâu. – Hồng Ma đáp, giọng đều đều – Lâu lâu ra ngoài bay phát cho vui thôi. Hồi Giao đẻ ta cũng biến mà, không thấy à?
– Ờm… không?
Oa Lân lắc đầu. Cô biết vì sao Hồng Ma nói vậy. Không có gì qua mặt được người ấy cả, nên tốt nhất cứ nghĩ những gì an toàn nhất đi.
– Có muốn biết vì sao hồi đó ta phải nuôi quân chứ không hóa rồng càn một phát đi luôn không?
– Hở?
Câu hỏi vừa rồi của Hồng Ma làm Oa Lân chưng hửng. Đó quả thực là bí mật hai ngàn năm nay Hồng Ma không nói với ai. Từ lần đầu hai người giết nhau, Oa Lân chưa hề thấy chủ biến lại thành rồng, dù chỉ trong phút chốc. Vậy mà hồi nãy bà già này mới nói mình đã hóa rồng để bay sang phương Tây chỉ để xin… máu rồng sao? Bả bị rảnh à? Đã hóa được thành rồng rồi còn qua Tây làm trò gì nữa? Lần đó thậm chí cả đi lẫn về Hồng Ma tốn không tới nửa tiếng, nhưng rõ ràng cô ta không biết phép dịch chuyển, vậy cái thứ tốc độ bội siêu thanh nào đã giúp bà già quỷ này phóng được mấy vạn cây như thế chứ? Hóa rồng siêu vậy, vậy sao hồi ấy không biến thân rồi càn nát luôn cả Hoa Đông đi cho rảnh nợ?
– Oa Lân vẫn là oa lân. Hai ngàn tuổi rồi mà còn chưa khôn nổi sao?
Hồng Ma chợt nói. Đoạn, cô biến trở về dạng người. Hoàn toàn không tốn công và đau đớn như khi Oa Lân hóa thú, mà cô cá chắc bà chủ cũng chẳng biết cảm giác thốn khi xương tự nắn là gì đâu, Hồng Ma quay về là người phụ nữ tóc đỏ, sừng đỏ, trùm cái áo choàng đen từ đầu tới chân. Tuy nhiên, khác với Oa Lân, cô không bước đi, mà thực sự bay lơ lửng như một hồn ma đích thực.
Nhưng Oa Lân không lấy làm lạ: Dù gì Hồng Ma cũng là… ma mà! Bà ta chết lâu rồi, cái thứ đang đứng ngay cạnh cô bây giờ là linh hồn đã hòa với lửa đen, trở thành thứ tồn tại giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Suốt mấy ngàn năm, Hồng Ma không nói nhiều về bản thân, mà Oa Lân cũng không có dịp tìm hiểu. Bởi lẽ, chỉ khi cần làm gì thì cô ta mới cho cả lũ thi quỷ, có cả Oa Lân, ra khỏi quan tài, còn lại thì cứ nằm ngủ trong đó, còn cô ấy dùng phép giấu cả đám vô áo choàng, cứ vậy một mình bước đi thôi.
Ngồi xuống cạnh Oa Lân, Hồng Ma đưa tay chạm vào chân con quái thú. Ngay lập tức, thân thể Oa Lân bị đốt cháy trong ngọn lửa đen kia. Quái lạ thay, nó không hề nóng, ngược lại còn thư thái và mát mẻ vô cùng! Thậm chí chưa kịp nhận ra, Oa Lân đã bị chuyển về dạng người tự bao giờ rồi! Vừa khi ấy, Hồng Ma lại nắm tay cô, kéo ngồi xuống luôn. Lúc đó, Hồng Ma mới nói:
– Em nghĩ vì sao ta không tự mình tiêu diệt nhà Hạ, cũng không tự dấy quân đánh mà phải chờ khi Mạc Vương nổi lên?
– Ừm… vì chị ngáo? – Oa Lân gãi đầu – Giỡn thôi, có phải vì chị sợ lòng dân khi đó không phục không? Em biết trước vụ đó nhiều người có thành kiến với thi quỷ mà.
– Cũng đúng, mà chưa hẳn.
Mỉm cười, Hồng Ma nói:
– Lúc đó thực sự ta không đánh thắng được chúng.
– Hả?
Kinh ngạc, Oa Lân hét toáng lên, suýt nữa đã ngã nhào xuống chánh điện. Nhưng may mắn thay, cô đã kịp giữ lại thăng bằng. Khi ấy, Hồng Ma mới nói tiếp. Vào thời điểm đó, đúng hơn là khoảng một ngàn một trăm năm từ khi HỒng Bàng bị hạ và Mạc Vương rút về U Minh, nhà Hạ đã đạt tới đỉnh cao của phong kiến tập quyền và hình thành một đế chế rộng lớn, trải trên khoảng mười triệu cây số vuông. Thuở đó họ mạnh vậy vì ở Hoa Đông, lãnh thổ chính của triều Hạ, có mười đại tông môn chuyên về trấn áp các chủng phi nhân loại. Cũng vì sự tồn tại của mười môn phái đó mà rất nhiều cuộc khởi nghĩa bị nhấn chìm trong biển máu, chủ yếu là vì người ta không thể chống lại các âm dương sư của họ. Và cứ thế, mỗi lần thất bại, nhà Hạ lại ra chính sách trừng trị Giao Châu nặng nề hơn. Tuy có vài lần thành công giành được độc lập, lần nào Hồng Bàng cũng bị đánh thua cả.
Để đối phó với nhà Hạ, Mạc Vương đã lên “kế hoạch ngàn năm” nhằm làm suy yếu các tông phái kia. Một mặt, họ liên tục cử người vào quấy phá bên trong, từng bước châm lửa cho mâu thuẫn nội bộ bên trong và mâu thuẫn giữa các đại tông, mặt khác học lỏm bí thuật và mang về U Minh. Các gián điệp cũng được cài cắm để làm nhà Hạ chia rẽ, gây mất dần sự trung thành của các tông chủ với Hoàng đế. Đồng thời, họ liên tục cho người xui nông dân nghèo Hoa Đông nổi dậy khởi nghĩa, gây rối loạn an nguy xã tắc Đại Hạ. Trong lúc đó, U Minh phía Nam lại không ngừng bành trướng, thâu tóm dần vùng Nam Vang, mở rộng sang cả lãnh thổ nước Xiêm La khi xưa và chiếm gọn cả bán đảo Miến, đi đến tận vùng phía Đông tiểu lục địa Cồ Đàm. Người U Minh suốt hơn ngàn năm đã luôn chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công quyết định.
– Nhưng vậy lâu quá! – Oa Lân bảo – Sao họ không đánh luôn đi?
– Cái câu này em hỏi ta đó giờ cũng mấy trăm lần rồi nhỉ? – Hồng Ma mỉm cười – Làm chỉ huy, phải biết “nhẫn”. Trước năm chín trăm mười sáu, nhà Hạ vẫn còn tương đối mạnh. Nhưng từ sau khi Hạ Phế Đế qua đời, Hoa Đông rơi vào cảnh chia năm xẻ bảy thì đó mới là thời cơ tốt. Bởi lẽ chúng ta không chỉ giải phóng vùng Văn Lang, mà còn phải thu hồi hết các lãnh thổ cũ của Hồng Bàng, vốn kéo dài tới bờ Nam sông Linh Giang nữa.
Dừng một chốc, Hồng Ma lại kể:
– Đánh chiến dịch lớn như vậy cần phải chuẩn bị thật chu đáo, và chỉ cần một trong mười tông môn còn trấn giữ, chúng ta gần như sẽ thất bại. Vậy nên ta mới đầu quân cho Mạc Vương và dùng thi quỷ tụi bây đánh với đám âm dương sư. Tụi Hoa Đông học lỏm thuật thao thi của tộc ta, nên chúng nó không nắm được cốt lõi. Không phải chỉ thao túng xác không mà còn phải làm chủ cả hồn nữa! Nên tụi bây mới còn ý thức, chứ đám Hoa Đông đó chỉ là mấy con rối thịt nhảy tưng tưng thôi!
– Ghê… – Oa Lân bĩu môi – Nếu vậy sao chị không hóa rồng đánh luôn đi, xài tụi này làm gì?
– À, cái vụ hóa rồng ấy à…? – Hồng Ma cười cười, hai bàn tay nắm chặt lại nhau – Cái đó thì… Em nghĩ rồng ba đầu phương Tây tự nhiên hiện ra ở đây có dị không?
– Cái gì? – Oa Lân hét lớn – Lý do của chị có nhiêu đó thôi hả?
– Dĩ nhiên không. Nghĩ sao thế?
Mỉm cười, Hồng Ma quay qua, đưa bàn tay ấm áp vuốt lên mặt Oa Lân. Đoạn, cô bảo rằng dù bây giờ mình có ấm thế nào đi nữa thì sự thật, cô cũng đã chết rồi. Mà người chết thì không thể cứ mãi bám víu lấy thế giới này, cứ lãnh đạo người sống được. Là thi quỷ, Oa Lân hiểu điều đó nghĩa là sao. Những kẻ sống lâu thường tư duy sẽ chậm lại, vì vậy họ thường không bắt kịp được xu thế của thời đại mới. Đó là lý do các Tổng lãnh, dù là loài có tuổi thọ cao, thường thay người chỉ sau vài chục năm, vì họ biết mình không thể cai trị với bộ óc trì trệ mãi được. Họ có thể đóng vai cố vấn cho thế hệ trẻ, đưa ra các lời khuyên, nhưng không thể cứ mãi ham quyền cố vị, duy ý chí mà không theo được với thời đại.
Thế giới chuyển mình nhanh lắm, Hồng Ma thở dài. Vì vậy, những kẻ như cô và đám thi quỷ không khác gì mấy vị khách ưa ngồi dai trong nhà người ta, khi mà mọi khách khứa khác đã về hết. Đó cũng là lý do cô để các thi quỷ ngủ khi không có chuyện gì, để đảm bảo trí óc họ vẫn nhanh nhạy như khi còn sống, làm chậm tới tối đa quá trình “lão hóa suy nghĩ” của những kẻ đáng ra đã có hàng ngàn năm tuổi đời. Vì ít ra ngoài, nên với mỗi thời đại, họ đều sẽ được học thêm nhiều cái mới chứ không phải như Hồng Ma, lúc nào cũng làm “khan giả” cho vở tuồng có tên “Lịch sử” này. Và HỒng Ma, với trách nhiệm là kẻ đã chứng kiến lịch sử hơn sáu vạn năm, tự tin mà tuyên bố mình phải có vai trò cố vấn cho lứa trẻ, để họ đừng rơi vào sai lầm như thế hệ trước nữa.
– Nghe mắc ói! – Oa Lân móc ngay – Chị mà cố vấn thì em đi bằng đầu á!
– Vậy đi đi, vì ta cố vấn cho Giao đó thôi.
Nháy mắt đầy kiêu ngạo, Hồng Ma cười thẳng vào mặt Oa Lân. Cô giật mình, giờ mới biết mình nói ngu thì quá trễ rồi! Oa Lân định tìm lời chữa cháy, nhưng Hồng Ma đã giật ngay lời, không cho cô nàng thi quỷ dưới quyền được lên tiếng:
– Giao cũng sắp già rồi. Chừng hai chục năm nữa cu Thiên lớn, thằng bé sẽ kế nhiệm mẹ nó. Sau đó nó có con, con nó lại thay cha mình. Cứ như vậy, tre già măng mọc, lớp sau kế thừa lớp trước mà đi lên! Rồi đám già chúng ta sẽ rời vũ đài lịch sử, lui vào cánh gà và giúp đỡ chúng nó khi cần thiết. Nhưng sẽ không can thiệp quá nhiều, tụi nhỏ phải biết cách tự đứng trên chân mình! Bảo bọc mãi sao nó lớn được chứ?
– Chị… tính xa đến như vậy sao? – Oa Lân nheo mắt lại, hỏi nửa thật nửa đùa.
– Làm tướng phải biết nhìn xa trông rộng. – Hồng Ma gật đầu – Em cũng vậy, phải không? Chỉ huy quân đoàn, tính toán thế nào để về mặt chiến thuật lẫn chiến lược ta đều thắng. Giả dụ không thể thắng chiến thuật thì vẫn phải đảm bảo yếu tố chiến lược, đảm bảo hợp thành tác chiến với các mũi quân khác nhịp nhàng, không gây ảnh hưởng tiêu cực tới mục tiêu chung của toàn quân. Nhớ không, “Quân đoàn trưởng”?
Ba chữ “Quân đoàn trưởng” làm Oa Lân thấy nhột trong lòng. Quả thực khi còn chỉ huy đổ bộ, cô chỉ chăm chăm tới việc hoàn thành mục tiêu chiến thuật mà bỏ quên yếu tố chiến lược. Sau những thất bại chiến lược nặng nề ở Siegfried, dù thắng chiến thuật khá lớn, cô đã bị Hồng Ma khiển trách và lúc đó mới khôn ra được. Từ dạo ấy, Oa Lân bỏ hẳn kiểu đánh chỉ nhìn cục bộ, lo mỗi phần mình mà đã chuyển sang hiệp đồng tác chiến với các đơn vị khác, đồng loạt hành động theo từng chiến dịch cụ thể có hỗ trợ nhau để đạt mục tiêu chung. Cái đó… khi ấy gọi là “nghệ thuật chiến dịch” nhỉ? Hình như là nó, phát triển từ việc nhận thức thực tiễn bản chất và mối liên hệ biện chứng giữa các trận đánh và toàn cuộc chiến. Mà khoan…
Hiểu rồi! Oa Lân hiểu rồi!
Đánh trận cũng như cai trị, không thể chỉ vì cái lợi chiến thuật trước mắt mà làm mất đi lợi ích chiến lược lâu dài. Việc này đối với các yêu quái già, thuộc thế hệ “mạnh làm trùm” rất khó hiểu, bởi họ thường quan niệm sức mạnh là tất cả, giải quyết mọi chuyện bằng một trận đánh quyết định, và kẻ mạnh là kẻ cai trị tuyệt đối. Như vậy thì Đế quốc Liên hiệp, quốc gia mà nhà lãnh đạo tối cao là con người, có pha máu á nhân, chứ không phải yêu quái rất dễ bị xem thường. Nhưng đó cũng là cái lợi vì loài người suy nghĩ nhanh, thọ mạng ngắn tức là phải tư duy nhanh nhạy lên, nên họ là những người có thể bắt kịp thời đại nhất. Còn các yêu quái lớn tuổi, họ sẽ đóng vai trò hỗ trợ, cố vấn cho Hoàng đế trong những vấn đề quan trọng, và cũng là pho tư liệu sống. Như vậy, dụng ý thực sự khi thành lập Hội đồng Tuyển đế hầu là…
– Chính là vậy đấy! – Hồng Ma từ tốn mỉm cười – Hoàng đế đã có tầm nhìn xuyên suốt cả ngàn năm, và tới giờ nó vẫn còn nguyên gia trị.
– Em cá là nếu Viêm biết chuyện này, con bé sẽ nhảy cẫng lên vì sướng cho xem! – Oa Lân cười – Mà sao chị lại nói cái này cho em mà không phải Masami, Hương Hương hay Mộc Ma?
– Tụi nó chưa đủ trình để hiểu. Oa Lân, chỉ có em mới hiểu được. Còn con Giao thì… nó thông cái vụ này lâu rồi!
– Gì chứ? Thuyền trưởng biết trước cả em sao?
– Em coi thường cái đứa chuyên lý luận chính trị – quân sự như nó à? Chết đấy gái!
Đưa tay vỗ vỗ vai Oa Lân, Hồng ma mỉm cười. Lúc này, trăng đã xuống dần, Móc chiếc đồng hồ quả quýt trong túi ra, cô thấy giờ đã hơn một giờ sáng. Đứng dậy, Hồng Ma chuẩn bị về tàu. Oa Lân cũng đứng lên, chuẩn bị rời đi. Nhưng ngay trước lúc đi, Hồng Ma vịn tay cấp dưới lại, bảo:
– Tầm nhìn là một trong những điều tối quan trọng của nhà lãnh đạo, mà cái đó mấy tộc ít tuổi như loài người làm tốt hơn chúng ta. Thiên niên kỷ mới sẽ là thời của họ, Gốp, người lùn và Nord, các chủng loài năng động bậc nhất! Đám nhiều cơ ít não sắp phải nhường lại ngai vàng cho những kẻ suy nghĩ năng động và có tầm nhìn chiến lược rõ ràng rồi. Cứ chờ đấy, chờ xem đứa trẻ Giao mang về có thể làm được gì!
– Chị nhìn được tương lai à? – Oa Lân hơi ngớ người – Sao tự nhiên lại…
– Dào, nhìn cái gì mà nhìn chứ! – Hồng Ma xua xua tay, nói – Chỉ là chút niềm tin của ta gửi gắm ở cái thế hệ “hòa bình” thôi! Ga ha ha ha ha ha ha!
Nói đoạn, Hồng Ma tan biến như làn sương vào bóng đêm vô tận. Còn lại một mình, Oa Lân nghĩ về những gì chủ mình nói ban nãy. Thời đại mới… có lẽ cũng đúng lắm chứ! Mà suy cho cùng, trong mắt Hồng Ma, Oa Lân vẫn chỉ là oa lân thôi, chưa trưởng thành nữa mà! Nếu Hồng Ma đã là cố vấn cho thuyền trưởng, vậy có khi nào chừng mười năm nữa, cô sẽ làm cố vấn cho hai con nhỏ đang ôm nhau đầy “tình tứ” dưới kia không?
“Mà mai mốt chắc mình tổng hợp mấy lời của bả rồi in sách luôn nhỉ? Kiểu như “Lý luận Hồng Ma” ha?”
Nghĩ vậy, Oa Lân mỉm cười. Đoạn, cô đạp thẳng vào không trung, bay đi như sao băng, lướt dưới ánh trăng bàng bạc, kẻ đã chứng kiến tất cả trong cái thế giới tưởng như tĩnh lặng này. Ai mà biết được nơi nhìn tưởng như bình yên này lại vận động không ngừng cơ chứ!