Chim Cổ Đỏ

Phần 7: Áo Choàng Đen - Chương 74



Bệnh viện Rikshospital.
Ngày 10 tháng Năm nam 2000.


Harry nhận ra Bernt Brandhaug ngay tắp lự. Ông ta có nụ cười rộng ngoác trên mặt, nhìn Harry trừng trừng bằng đôi mắt trợn ngược.

“Tại sao ông ta cười thế?” Harry hỏi.

“Đừng hỏi tôi,” Klemetsen đáp. “Các cơ mặt cứng queo rồi thì người ta có đủ các kiểu vẻ mặt. Đôi khi chúng tôi phải thấy những ông bố bà mẹ còn không nhận ra được con mình, vì chúng đã thay đổi quá nhiều.”

Chiếc bàn khám nghiệm tử thi nằm ngay giữa phòng. Klemetsen cất tấm vải che đi để họ thấy phần còn lại của thi thể. Halvorsen ngay lập tức quay phắt lại. Cậu ta đã không chịu nghe theo lời khuyên của Harry mà thoa kem tinh dầu bạc hà trước khi bước vào đây. Vì nhiệt độ phòng trong Phòng Khám nghiệm tử thi số 4 của khoa Pháp y, bệnh viện Rikshospital là mười hai độ, cái mùi không phải là thứ tồi tệ nhất. Halvorsen không thể ngăn được mình nôn ọe.

“Công nhận,” Knut Klemetsen nói. “Trông ông ta chẳng đẹp đẽ gì.”

Harry gật đầu. Klemetsen là một nhà bệnh lý học giỏi, và là người chu đáo. Ông biết được rằng Halvorsen là người mới, ông không muốn làm cậu ta ngượng. Brandhaug trông cũng không tệ hơn hầu hết các xác chết khác. Nói cách khác, ông ta vẫn còn đỡ hơn cặp song sinh nằm ngâm trong nước suốt một tuần, mười tám tuổi, bị đụng xe ở tốc độ 200 km/giờ do chạy trốn cảnh sát. Hoặc cô nàng nghiện ma túy tự tẩm xăng lên người rồi đốt, ngồi một chỗ hoàn toàn trần truồng trừ chiếc áo ngoài có mũ trùm đầu vải chần. Harry đã từng nhìn thấy hầu như mọi thứ và trong top mười thứ gây khó chịu nhất cho anh thì Bernt Brandhaug rõ ràng không nằm trong số đó. Duy chỉ có một điều rõ ràng: với chỉ một viên đạn xuyên qua lưng thì trông Bernt Brandhaug như vậy là khủng khiếp. Vết thương đầu ra toang hoác trên ngực ông ta to đến nỗi nắm đấm của Harry ấn vào cũng lọt.

“Vậy là viên đạn xuyên qua lưng ông ta?” Harry nói.

“Ngay giữa hai xương bả vai, đi nghiêng xuống dưới. Viên đạn làm giập nát xương sống khi đi vào, khi bay ra làm dập nát xương ức. Như anh có thể thấy, xương ức bị thiếu mất nhiều phần. Họ tìm thấy vài dấu vết của nó trên ghế ngồi trong xe.”

“Trên ghế ngồi trong xe.”

“Phải, ông ta vừa mới mở cửa ga ra, có lẽ là đang trên đường đi làm thì viên đạn đi xuyên người ông ta ở một góc nghiêng. Nó xuyên qua các kính chắn gió trước và sau rồi găm vào bức tường phía sau ga ra, không hơn không kém.”

“Nó có thể là loại đạn kiểu gì nhỉ?” Halvorsen hỏi, có vẻ cậu ta đã trấn tĩnh lại được.

“Các chuyên gia đạn đạo sẽ phải trả lời câu hỏi đó!” Klemetsen đáp. “Nhưng tính năng của nó giống như một sự giao thoa giữa đạn đum đum(41) và một máy khoan đường hầm. Nơi duy nhất tôi từng thấy một thứ giống thế này là khi tôi làm công tác của Liên Hiệp Quốc ở Croatia năm 1991.”

“Một loại đạn của Singapore,” Harry nói. “Họ đã tìm thấy các phần còn lại in vào tường khoảng nửa phân, vỏ đạn họ tìm thấy trong cây cối gần đó giống loại tôi tìm được tại Siljan mùa đông năm ngoái. Đó là lý do tại sao họ liên hệ với tôi ngay. Anh còn cho chúng tôi biết được gì nữa không, Knut?”

Cũng chẳng còn nhiều. Ông nói rằng đã tiến hành khám nghiệm tử thi, với sự có mặt của Kripos theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân tử vong thì rõ ràng rồi, ngoài ra chỉ có hai vấn đề ông xem là đáng chú ý - có dấu vết của rượu trong máu của Brandhaug và dịch âm đạo được tìm thấy dưới móng tay trên ngón giữa bàn tay phải của ông ta.

“Của vợ ông ta à?” Halvorsen hỏi.

“Kết quả giám định sẽ cho biết điều đó,” Klemetsen đáp, nhìn chàng cảnh sát trẻ qua cặp kính. “Nếu họ nghĩ là cần thiết. Có thể bây giờ chẳng cần hỏi han bà ấy về những chuyện thế này, trừ phi cậu cho rằng nó liên quan đến cuộc điều tra.”

Harry lắc đầu.

Họ lái xe lên Sognsveien sau đó là đường Peder Ankers trước khi đến nhà Brandhaug.

“Ngôi nhà xấu tệ,” Halvorsen nói.

Họ bấm chuông cửa, đợi mất một lúc rồi một phụ nữ trang điểm nặng nề tầm ngoài năm mươi ra mở cửa.

“Bà là Elsa Brandhaug?”

“Tôi là chị gái. Có chuyện gì thế?”

Harry trình thẻ.

“Lại hỏi thêm à?” bà chị gái hỏi với nỗi tức giận dồn nén trong giọng nói. Harry gật đầu và biết ít nhiều chuyện sắp đến.

“Nói thật nhé! Nó mệt mỏi lắm rồi, có làm thế cũng chẳng làm chồng nó sống lại được, tất cả các…”

“Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi không nghĩ đến chồng bà ấy,” Harry lịch sự ngắt lời. “Ông ấy chết rồi. Chúng tôi đang nghĩ đến nạn nhân tiếp theo. Chúng tôi hy vọng sẽ không còn ai phải trải qua những gì bà ấy đang trải qua bây giờ.”

Bà chị gái đứng đó với cái miệng há hốc, không biết phải nói tiếp ra sao. Harry giúp bà thoát khỏi tình trạng lúng túng bằng cách hỏi bọn họ có phải cởi giày trước khi vào không.

Bà Brandhaug không có vẻ quá mệt mỏi như bà chị gái đã muốn họ tin như thế. Bà ta đang ngồi trên sofa nhìn chằm chằm vào khoảng không. Nhưng Harry nhận thấy đồ đan len đang thò ra dưới cái gối. Không phải là có gì đó không ổn với việc ngồi đan len khi chồng mới vừa bị sát hại. Ngẫm nghĩ thì Harry cho rằng điều này là hoàn toàn tự nhiên. Bám víu vào cái gì đó quen thuộc khi phần còn lại của thế giới đang sụp đổ bên tai ta.

“Tối nay tôi sẽ đi,” bà nói. “Đến nhà chị gái tôi.”

“Tôi hiểu là cảnh sát sẽ đến đây đứng canh gác cho đến khi có thông báo thêm!” Harry đáp. “Phòng trường hợp…”

“Phòng trường họp họ cũng sẽ săn đuổi cả tôi nữa,” bà nói kèm một cái gật đầu.

“Bà nghĩ vậy sao?” Halvorsen hỏi. “Và nếu vậy, họ là ai?”

Bà nhún vai. Ánh mắt bà nhìn chằm chằm ánh sáng ban ngày nhợt nhạt ngoài cửa sổ đang tràn vào phòng.

“Tôi biết Kripos đã đến đây hỏi bà về chuyện này,” Harry nói. “Nhưng tôi đang tự hỏi bà có biết chồng bà có nhận được thư đe dọa nào không sau bài báo đăng trên Dagbladet ngày hôm qua?”

“Không ai gọi đến đây cả,” bà đáp. “Nhưng trái lại các anh chỉ có thể tìm thấy tên tôi trong danh bạ. Bernt đã muốn như thế. Các anh sẽ phải hỏi Văn phòng Đối ngoại xem có ai gọi đến không.”

“Chúng tôi đã làm rồi,” Halvorsen đáp, liếc nhìn Harry thật nhanh. “Chúng tôi đang cố gắng tra dấu các cuộc gọi mà văn phòng ông ta nhận được hôm qua.”

Halvorsen hỏi thêm vài câu nữa về bất kỳ kẻ thù nào chồng bà ta có thể có, nhưng bà ta cũng chẳng giúp họ được nhiều.

Harry ngồi xuống lắng nghe một lúc, cho đến khi bất chợt nảy ra một ý. Anh hỏi, “Chắc chắn ngày hôm qua không có ai gọi đến chứ?”

“Có, có lẽ là có,” bà đáp. “Dù sao thì cũng có vài cuộc.”

“Ai gọi thế?”

“Chi gái tôi. Bernt. Và một số ý kiến thăm dò dư luận nọ kia, nếu tôi không nhớ nhầm.”

“Họ đã hỏi về chuyện gì?”

“Tôi không biết. Họ xin được nói chuyện với Bernt. Họ có mấy danh sách những cái tên, phải không nhỉ. Rồi là tuổi tác và giới tính…”

“Họ đã xin được nói chuyện với Bernt Brandhaug đúng không?”

“Vâng..”

“Đối với các ý kiến thăm dò dư luận họ không dùng tên đâu. Bà có nghe bất kỳ tiếng ồn gì đằng sau không?”

“Ý anh là sao?”

“Họ thường làm việc trong những văn phòng không có vách ngăn, với rất nhiều người…”

“Có cái gì đó!” bà nói, “nhưng…”

“Nhưng?”

“Không phải kiểu tiếng ồn anh đang nghĩ đâu. Mà nó… khác.”

“Bà nhận được cuộc gọi này lúc nào?”

“Khoảng giữa trưa, tôi nghĩ vậy. Tôi đã nói chiều ông ấy mới về. Tôi đã quên rằng Bernt phải đi Lavrik dùng bữa với Hội đồng Xuất khẩu.”

“Vì cái tên Bernt không nằm trong danh bạ điện thoại, vậy bà có chợt nghĩ rằng có thể ai đó đang kêu gọi mọi người gọi cho Brandhaug, để tìm hiểu xem Bernt sống ở đâu? Và biết xem khi nào thì ông ấy về nhà?”

“Tôi không hiểu ý anh…”

“Những người lấy ý kiến thăm dò sẽ không gọi đến nhà một người ở tuổi lao động, vào lúc giữa ngày làm việc như thế.”

Harry quay sang Halvorsen.

“Kiểm với Telenor xem cậu có thể lấy được số điện thoại gọi đến không.”

“Xin lỗi, bà Brandhaug,” Halvorsen nói. “Tôi để ý thấy bà có chiếc điện thoại Ascom ISDN mới ngoài tiền sảnh. Chính tôi cũng lắp đặt một cái cho mình. Mười cuộc gọi trước đó sẽ được ghi lại trong bộ nhớ cùng số gọi và giờ gọi. Liệu tôi có thể…”

Harry ném sang Halvorsen cái nhìn đồng tình trước khi cậu ta đứng dậy. Chị gái của bà Brandhaug đi cùng cậu vào tiền sảnh.

“Bernt là người cổ hủ về một số mặt!” bà Brandhaug nói với Harry bằng một nụ cười méo xệch. “Nhưng ông ấy lại thích mua đồ đạc hiện đại khi chúng xuất hiện. Điện thoại rồi những thứ kiểu vậy.”

“Về lòng chung thủy thì ông ấy cổ hủ thế nào, bà Brandhaug?”

Bà ta ngẩng phắt đầu lên.

“Tôi nghĩ chúng ta nên giải quyết chuyện này khi đang có một mình,” Harry nói. “Kripos đã kiểm tra những gì bà đã nói với họ ngày hôm qua. Chồng bà không dự bất kỳ buổi họp nào với Hội đồng Xuất khẩu tại Lavrik hôm đó. Bà có biết rằng Văn phòng Đối ngoại có một phòng tại khách sạn Continental để tùy ý sử dụng không?”

“Không.”

“Sếp của tôi ở Mật vụ vừa cung cấp cho tôi tin tức này sáng nay. Hóa ra chồng bà đã lấy phòng ở đó chiều hôm qua. Ông ta có ở đó một mình hay không thì chúng tôi không biết. Nhưng dĩ nhiên bà đã bắt đầu có những ý kiến nhất định, khi một người chồng nói dối vợ mình và đến khách sạn!”

Harry dò xét khuôn mặt bà ta khi nó trải qua một sự biến đổi, từ tức giận đến tuyệt vọng đến nhẫn nhục rồi… bật cười. Nghe như một tiếng thút thít khe khẽ.

“Thực ra thì tôi không nên ngạc nhiên,” bà nói. “Nếu anh một mực muốn biết, ông ấy… cũng rất hiện đại trong cả lĩnh vực ấy nữa. Dù tôi không hiểu điều này có liên quan gì đến vụ án không!”

“Việc này có thể tạo cho một người chồng ghen tuông động cơ để giết ông ấy,” Harry nói.

“Thì nó cũng tạo cho tôi động cơ vậy, anh Hole. Anh đã cân nhắc chuyện đó chưa? Hồi chúng tôi sống ở Nigeria, một hợp đồng giết mướn chỉ tốn có hai trăm krone Na Uy.” Bà vẫn cười nụ cười đớn đau ấy. “Tôi tưởng anh nói động cơ là lời tuyên bố đăng trên tờ Dagbladet.”

“Chúng tôi đang tính đến tất cả các khả năng.”

“Thông thường thì họ là những phụ nữ ông ấy gặp gỡ qua công việc!” bà nói. “Dĩ nhiên, tôi không biết mọi thứ đã diễn ra, nhưng có lần tôi bắt quả tang ông ấy. Và rồi tôi nhận ra mẫu biểu chung và cách ông ấy thực hiện nó. Nhưng giết người ư?” Bà lắc đầu. “Ngày nay cậu không bắn chết ai chỉ vì mấy chuyện như thế, đúng không?”

Bà nhìn Harry, anh đang không biết trả lời thế nào. Qua cánh cửa kính mở ra sảnh vào, anh nghe thấy giọng nói trầm của Halvorsen. Harry hắng giọng:

“Bà có biết gần đây ông ấy đang có quan hệ với riêng một người đàn bà nào không?”

Bà lắc đầu. “Hãy đi hỏi quanh trong Văn phòng Đối ngoại ấy. Đó là một môi trường kỳ lạ, anh biết đấy. Ở đó tất phải có một ai đó cực kỳ sốt sắng mách nước cho anh!”

Bà ta nói câu này không hề có ý cay đắng, chỉ đơn thuần là vấn đề thông tin.

Cả hai cùng ngước mắt lên khi Halvorsen bước vào phòng.

“Lạ quá,” cậu ta nói. “Bà đã nhận một cuộc gọi vào lúc 12 giờ 24 phút, bà Brandhaug, nhưng không phải vào ngày hôm qua. Mà là hôm kia.”

“Ôi trời, có lẽ tôi đã nhớ nhầm ngày,” bà nói. “Phải rồi, vậy thì nó chẳng có liên quan gì đến vụ án cả.”

“Có thể là không,” Halvorsen nói. “Dù sao tôi cũng đã kiểm tra số này với bên tổng đài. Cuộc gọi đến từ máy điện thoại trả tiền. Tại quán cà phê Schroder.”

“Quán cà phê à?” bà nói. “Đúng, vậy có lẽ điều này giải thích được những tiếng ồn ở sau. Anh có nghĩ…?”

“Chuyện này không nhất thiết liên quan đến kẻ giết chồng bà,” Harry đáp, đứng lên. “Ở quán của Schroder có nhiều người kỳ quặc lắm.”

Bà tiễn họ ra mấy bậc thềm trước nhà. Bên ngoài, buổi chiều xám xịt, những đám mây bay thấp đang quét qua ngọn đồi sau lưng họ.

Bà Brandhaug đứng đó hai tay khoanh trước ngực, như thể bà đang thấy buốt lạnh.

“Ở đây trời tối quá,” bà nói. “Các anh có thấy thế không?”

Đon vị Điều tra Hiện trường vẫn đang bận rộn rà soát khu vực xung quanh lán trại mà họ tìm thấy vỏ đạn thì Harry và Halvorsen từ bên kia vùng đất hoang đi lại.

“Này, hai cậu kia!” họ nghe thấy tiếng quát lớn khi cúi xuống chui qua dải băng vàng.

“Cảnh sát đây,” Harry trả lời.

“Như nhau cả thôi!” cũng giọng nói đó quát lại. “Các cậu sẽ phải đợi cho đến khi chúng tôi xong việc.”

Đó là Weber. Ông ta đang đi đôi ủng cao su cao và khoác áo mưa màu vàng trông rất tức cười. Harry và Halvorsen lại phải chui ra ngoài.

“Này, Weber,” Harry nói to.

“Không có thời gian,” ông trả lời, xua tay đi.

“Chỉ mất một phút thôi mà.”

Weber đến gần hơn bằng những sải chân dài, nét giận dữ hiện rõ trên mặt.

“Thế cậu muốn cái gì?” ông hét lên từ khoảng cách hai mươi mét.

“Hắn đã phải đợi bao lâu rồi thế?”

“Thằng cha đằng này hả? Không biết.”

“Thôi nào, Weber. Ước chừng đi.”

“Ai đang phụ trách vụ này? Kripos hay cậu hả?”

“Cả hai. Chúng tôi vẫn chưa phối hợp với nhau.”

“Và cậu đang cố lừa tôi rằng hai bên sẽ hợp tác chứ gì?”

Harry mỉm cười, rút ra điếu thuốc.

“Trước đây ông từng đưa ra những suy đoán chính xác lắm mà, Weber.”

“Dẹp ngay cái trò nịnh nọt của cậu đi, Hole. Thằng nhóc nào đây?”

“Halvorsen,” Harry lên tiếng trước khi Halvorsen kịp giới thiệu.

“Nghe ta này, Halvorsen,” Weber nói, chăm chú nhìn Harry với sự khinh miệt không buồn giấu giếm. “Hút thuốc là một thói quen đáng ghê tởm, là một bằng chứng tột bậc cho thấy rằng con người sống trên trái đất này chỉ vì một điều thôi - hưởng thụ. Thằng cha đã ở đây bỏ lại tám mẩu thuốc lá thừa trong chai nhựa lưng một nửa. Thuốc lá hiệu Teddy, không đầu lọc. Và những kẻ hút Teddy thường không chỉ bằng lòng với hai điếu một ngày, nên theo tính toán của ta, trừ phi hắn hết thuốc, bằng không hắn đã ở đây nhiều nhất là hai mươi tư tiếng. Hắn đã chặt mấy nhánh vân sam từ các cành cây thấp nhất không bị dính nước mưa. Nhưng có vài giọt mưa trên cây vân sam che phủ lán. Lần cuối cùng trời mưa ở đây là ba giờ chiều ngày hôm qua.”

“Vậy là hắn đã nằm ở đây trong khoảng thời gian từ tám giờ sáng đến ba giờ chiều ngày hôm qua?” Halvorsen hỏi.

“Tôi nghĩ Halvorsen có thể tiến xa đấy!” Weber nói ngắn gọn, đôi mắt ông vẫn nhìn Harry chằm chằm. “Đặc biệt khi xét đến sự cạnh tranh cậu ta sẽ phải đối mặt trong lực lượng. Nó đang ngày càng thảm khốc hơn. Các cậu đã thấy giờ họ đang tuyển sinh cái gì vào Học viện Cảnh sát chưa? Ngay cả giáo viên giảng dạy cũng phải ngày càng thiên tài, nếu so sánh với đám rác rưởi chúng ta có.”

Bỗng đâu dường như rốt cuộc Weber chẳng vội vàng gì cả. Ông ta bắt đầu một cuộc chỉ trích kịch liệt về những triển vọng tì ám trong lực lượng cảnh sát.

“Có ai sống gần đây thấy được gì không?” Harry lẹ làng hỏi khi Weber dừng lại thở lấy hơi.

“Chúng tôi đã cử bốn người đi hỏi từng nhà rồi, nhưng hầu hết thiên hạ phải đến cuối giờ chiều mới về. Họ sẽ chẳng thu thập được gì đâu.”

“Tại sao không?”

“Tôi không nghĩ hắn chường mặt ra quanh đây. Sớm ngày hôm nay chúng tôi đã xua chó đi lần theo dấu chân hắn khoảng một cây số vào rừng, đến một trong mấy con đường mòn. Nhưng tới đấy thì chúng tôi mất dấu hắn. Tôi thì đoán hắn đến đây rồi quay về chỉ một đường thôi, đi theo một mạng lưới đường mòn giữa Sognsvann và hồ Maridal. Có thể hắn đã dừng xe tại ít nhất một trong mười hai điểm đỗ xe dành cho khách bộ hành trong khu này. Mỗi ngày có đến hàng ngàn người trong số này đi trên các lối mòn đó, ít nhất một nửa trong số họ mang ba lô. Cậu hiểu không?”

“Chúng tôi hiểu!”

“Và giờ chắc cậu sắp hỏi tôi có dấu vân tay nào không đúng chưa?”

“À thì…”

“Thôi nào.”

“Vậy còn cái chai nhựa thì sao?”

Weber lắc đầu.

“Không có vân tay. Chẳng có gì hết. Xét theo chuyện hắn đã ở đây lâu đến thế, thật ngạc nhiên khi hắn để lại thật ít dấu vết. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, nhưng tôi khá chắc chắn rằng chúng tôi chỉ tìm được có dấu giày và mảnh xơ quần áo của hắn thôi.”

“Cộng thêm vỏ đạn nữa.”

“Hắn bỏ lại cái đó là cố tình đấy. Chứ mọi thứ khác đã được dọn dẹp quá sạch sẽ rồi.”

“Hừm. Có lẽ là muốn cảnh cáo đấy. Ông nghĩ sao?”

“Tôi nghĩ sao à? Tôi thì nghĩ chỉ những thằng nhóc thanh niên như các cậu mới được trời phú cho năng lực tư duy như thế. Ngày nay đó là những ấn tượng họ đang cố gắng khuyến khích trong lực lượng đấy.”

“Được. Cảm ơn đã giúp đỡ nhé, Weber.”

“Mang luôn bao thuốc của cậu đi, Hole.”

•   •   •

“Lão già này hơi khắt khe đấy!” Halvorsen nói trong xe trên đường xuống trung tâm thành phố.

“Đôi lúc cũng khó chịu nổi Weber,” Harry thừa nhận. “Nhưng ông ấy biết việc.”

Halvorsen đánh nhịp trên bảng đồng hồ theo một nhạc khúc không lời. “Giờ sao đây?” cậu ta hỏi.

“Continental!”

•   •   •

Kripos gọi điện đến khách sạn Continental mười lăm phút sau khi họ đã giặt và thay đồ trải giường trong phòng của Brandhaug. Không ai để ý đến việc Brandhaug có khách đến thăm, ngoài việc ông ta trả phòng vào khoảng nửa đêm.

Harry đứng ở quầy tiếp tân, rút ra điếu thuốc lá cuối cùng trong khi trưởng bộ phận tiếp tân trực đêm qua đang siết hai tay vào nhau, trông không vui.

“Mãi đến sáng chúng tôi mới biết ông Brandhaug bị bắn chết,” anh ta nói. “Bằng không chúng tôi đã không động đến phòng của ông ấy.”

Harry ra dấu hiệu đã hiểu và rít một hơi thuốc. Phòng khách sạn thì không phải là hiện trường của tội ác nào; chỉ là sẽ thật thú vị nếu biết có sợi tóc vàng nào trên gối không rồi liên hệ với kẻ có thể là người sau cùng nói chuyện với Brandhaug, cho dù kẻ ấy có là ai đi nữa.

“À nếu không còn gì để hỏi nữa!” anh ta nói mà mỉm cười và có vẻ như sắp khóc đến nơi.

Harry không đáp. Anh nhận thấy anh và Halvorsen càng nói ít bao nhiêu, người trưởng tiếp tân lại càng căng thẳng bấy nhiêu. Thế nên anh chẳng nói gì; và chờ đợi, ngắm nhìn đốm lửa đầu điếu thuốc.

“À…,” anh chàng tiếp tân nói, một bàn tay miết dọc theo ve áo vest.

Harry vẫn đợi. Halvorsen thì nhìn xuống sàn nhà. Anh chàng tiếp tân kiên cường thêm được gần mười lăm giây nữa, rồi đầu hàng.

“Dĩ nhiên, đôi khi ông ta cũng có khách lên đấy!” anh ta nói.

“Ai?” Harry hỏi, mắt vẫn nhìn đầu điếu thuốc đang cháy.

“Nam và nữ…”

“Ai?

“Nói thật thì tôi không biết. Tìm hiểu xem ông Thứ trưởng ngoại giao muốn qua đêm với ai không phải việc của chúng tôi.”

“Thật sao?”

Im lặng.

“Dĩ nhiên nếu một phụ nữ đến đây rõ ràng không phải là khách, chúng tôi có ghi lại xem cô ấy đi thang máy lên tầng nào.”

“Cậu sẽ nhận ra cô ta chứ?”

“Vâng.” Câu trả lời đến ngay như một phát súng, không chần chừ. “Cô ấy rất hấp dẫn. Mà còn say mèm nữa.”

“Gái điếm à?”

“Nếu vậy thì là gái điếm hạng sang rồi. Thường thì họ tỉnh táo. À, không phải là tôi biết nhiều về họ đâu. Khách sạn này không…”

“Cảm ơn,” Harry nói.

•   •   •

Một cơn gió Nam thổi đến mang theo thời tiết ấm khi Harry rời Sở Cảnh sát sau cuộc họp với Meirik và cảnh sát trưởng, theo bản năng anh biết điều gì đó đã kết thúc. Một mùa mới sắp đến.

Cả cảnh sát trưởng lẫn Meirik đều quen biết Brandhaug. Chỉ trong công việc, cả hai đều thấy cần thiết phải nhấn mạnh điều đó. Rõ ràng cả hai đã thảo luận riêng với nhau. Mở đầu cuộc họp, Meirik đã rạch ròi dứt điểm vụ công tác ngầm tại Klippan. Harry nhận thấy ông ta có vẻ gần như thấy nhẹ nhõm. Sau đó cảnh sát trưởng đưa ra đề xuất của mình. Harry nhận thấy những kỳ công chớp nhoáng của mình tại Sydney và Bangkok thậm chí đã để lại dấu ấn cả với những cấp cao hơn trong lực lượng cảnh sát.

“Một cỗ máy truy quét điển hình!” cảnh sát trưởng đã gọi Harry như thế. Và sau đó cô giải thích vai trò họ đang muốn đặt anh vào.

Một mùa mới. Con gió ấm áp khiến Harry cảm thấy thư thái đầu óc, anh tự cho phép mình đi taxi vì vẫn đang phải kéo lê theo một cái túi nặng trịch. Việc trước tiên anh làm khi bước vào căn hộ của mình tại phố Sofies là kiểm tra máy trả lời tự động. Đèn đỏ bật sáng. Không nhấp nháy. Không có tin nhắn.

Anh đã yêu cầu Linda gửi cho anh một bản sao hồ sơ vụ án, dành buổi tối còn lại xem lại tất cả những gì họ có về các vụ án mạng Hallgrim Dale và Ellen Gjelten. Không phải anh nghĩ sẽ tìm thấy điều gì mới, mà là nó có thể kích thích trí tưởng tượng của anh. Chốc chốc anh lại liếc máy trả lời tự động, tự hỏi mình chờ được bao lâu nữa thì gọi cho cô. Vụ Brandhaug là mục chính trên bản tin truyền hình. Đến nửa đêm anh đi ngủ. Vào lúc một giờ, anh tỉnh dậy, rút giắc cắm điện thoại ra và bỏ điện thoại vào tủ lạnh. Đến ba giờ thì anh ngủ thiếp đi.

TruyenFull.com đổi tên miền thành TruyenFull.tv