Oslo.
Ngày 11 tháng Ba năm 2000.
Harry cảm thấy bộ com lê quá nhỏ. Anh thấy vậy, nhưng không hiểu được. Từ mười tám tuổi đến giờ anh không hề tăng một cân nào, bộ com lê này đã vừa in khi anh mua tại Dressmann để dự các lễ kỷ niệm sau kỳ thi năm 1990. Tuy nhiên, đứng trước gương trong thang máy, anh thấy rõ đôi tất giữa quần âu và đôi giày Dr Martens. Chỉ là một trong những bí ẩn không giải thích được.
Cánh cửa thang máy vừa mở ra hai bên thì Harry đã nghe tiếng nhạc, đàn ông chuyện phiếm ồn ào và phụ nữ nói ríu rít tràn ra từ những cánh cửa mở rộng trong căng tin. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Đã 8 giờ 15. Đến 11 giờ là xong và anh có thể về nhà.
Anh hít một hơi thật sâu, bước vào trong căng tin và quét mắt khắp phòng. Nhà ăn có thiết kế theo kiểu Na Uy truyền thống - một phòng vuông có quầy bằng kính, ở một đầu quầy bạn có thể gọi đồ ăn, bàn ghế sáng màu mua tại một con vịnh hẹp nào đó ở Sunnmore và một biển cấm hút thuốc. Ban tổ chức buổi tiệc đã cố gắng hết sức ngụy trang cho cái phông hằng ngày bằng bóng bay và khăn trải bàn màu đỏ. Cho dù nam giới vẫn chiếm số đông, sự xen kẽ nam nữ được phân chia còn đều hơn cả khi Đội Hình sự tổ chức tiệc. Hầu hết mọi người dường như đã ngấm chút rượu. Linda từng nói về nhiều người uống ngà ngà trước tiệc khác nhau. Harry thấy mừng khi chẳng ai mời anh.
“Cậu mặc com lê trông đẹp lắm đấy, Harry.”
Đó là Linda. Anh hầu như không nhận ra người phụ nữ trong bộ váy bó sát, không chỉ nhấn mạnh phần cân thừa của chị ta, mà cả dồi dào nữ tính. Chị ta cầm một khay các thức uống có màu cam, giơ lên trước mặt anh.
“Ôi… không, cảm ơn nhiều, chị Linda.”
“Đừng có chán thế, Harry. Đây là tiệc mà!”
• • •
Prince lại đang gào thét trong stereo gắn trên xe.
Ellen cúi người tới trong ghế tài xế, vặn nhỏ âm lượng xuống. Tom Waaler liếc xéo sang cô.
“Hơi to quá,” cô nói, nghĩ rằng chỉ ba tuần nữa thôi cảnh sát viên từ Steinkjer sẽ đến, và cô sẽ không phải làm việc cùng Waaler nữa.
Vấn đề không phải là nhạc. Anh ta không làm phiền cô về chuyện đó. Và anh ta nhất định không phải là một cảnh sát tồi.
Vấn đề chính là những cuộc gọi. Không phải Ellen Gjelten không có chút thông cảm nào với kiểu đời sống tình dục ít nhiều buông thả, nhưng hết nửa thời gian anh ta nói chuyện di động cô chỉ nghe thấy toàn các màn đối thoại rằng một cô nàng đã, đang hoặc sắp bị đá. Những màn đối thoại với những cô sắp bị đá là khó chịu nhất. Họ là những người phụ nữ anh ta hắt hủi, và khi nói chuyện với họ, anh ta giở cái giọng khiến Ellen chỉ muốn thét lên thật to: Đừng làm thế! Hắn sẽ chẳng mang lại cái quái gì tốt lành đâu! Chạy mà giữ mạng đi! Ellen Gjelten là một người độ lượng dễ dàng tha thứ cho nhược điểm của con người. Cô chưa phát hiện được nhiều khuyết điểm ở Tom Waaler, nhưng cũng chẳng thấy nhiều nhân tính. Nói toạc ra, cô không thích anh ta.
Họ đã lái xe qua công viên Toyen. Waaler nhận được mật báo rằng có người đã thấy Ayub, tên cầm đầu băng nhóm người Pakistan họ đã truy đuổi sau vụ tấn công tại Vườn thượng uyển vào tháng Mười hai, tại Aladdin, một nhà hàng Pakistan ở phố Hausmanns. Ellen biết họ đã đến quá muộn; sẽ chỉ có thể hỏi thăm mọi người có biết Ayub ở đâu không. Họ sẽ không nhận được câu trả lời nhưng ít nhất họ cũng đến cho có mặt, cho thấy rằng họ sẽ không để hắn được yên.
“Đợi trong xe, tôi sẽ đi kiểm tra xem!” Waaler nói.
“Được.
Waaler kéo dây khóa áo khoác da xuống.
Để khoe cơ bắp anh ta có được do tập tạ ở phòng gym tại Sở Cảnh sát đây mà, Ellen nghĩ. Hoặc lộ ra vừa đủ bao súng ngắn đeo dưới vai để họ biết rằng anh ta có mang vũ khí. Các cảnh sát trong Đội Hình sự luôn có quyền mang theo vũ khí, nhưng cô biết Waaler còn mang nhiều hơn một khẩu súng lục công vụ. Một khẩu nòng to; mà cô cũng chẳng buồn hỏi. Ngay sau xe cộ, chủ đề trò chuyện ưa thích của Waaler là súng lục, và cô ưa xe cộ hơn. Bản thân cô không mang theo vũ khí. Không mang theo trừ phi là bắt buộc, như trong chuyến viếng thăm của tổng thống vào mùa thu.
Trong vô thức cô có gì đó xao động. Nhưng nó bị cắt ngang ngay bởi tiếng nhạc chuông kỹ thuật số “Napoleon with his Army.” Đó là di động của Waaler. Ellen mở cửa xe để gọi với theo anh ta, nhưng anh ta đã trên đường vào nhà hàng.
Đúng là một tuần chán nản. Ellen không nhớ nổi đã từng có tuần nào chán nản như thế chưa kể từ khi vào lực lượng cảnh sát. Cô lo sợ chuyện này có liên quan đến việc cuối cùng cô cũng có được cuộc sống riêng tư. Đột nhiên, việc phải về nhà trước khi quá muộn trở thành vấn đề, và những ca làm việc ngày thứ Bảy như tối nay trở thành một sự hy sinh. Chiếc di động vẫn đổ bản nhạc “Napoleon…” đến lần thứ tư.
Một trong những cô ả bị đá à? Hoặc là người sắp bị thế? Nếu bây giờ Kim bỏ cô… nhưng anh sẽ chẳng làm thế. Cô chỉ biết thế thôi.
Bản “Napoleon with his Army” vang lên lần thứ năm.
Vài tiếng nữa sẽ hết ca làm việc và cô về nhà, đi tắm rồi chạy ngay đến nhà Kim ở phố Helgesens, năm phút trong trạng thái tình dục hưng phấn. Cô cười khúc khích.
Sáu lần! Cô chộp lấy cái điện thoại dưới phanh tay.
“Đây là máy trả lời của Tom Waaler. Rất tiếc ông Waaler không có ở đây. Vui lòng để lại tin nhắn.”
Cô cố ý biến nó thành một trò đùa. Thực ra sau đó cô muốn nói rằng cô là ai, nhưng vì lý do nào đó cô chỉ ngồi đấy lắng nghe hơi thở nặng nề ở đầu dây bên kia. Có lẽ để có cảm giác mạo hiểm, có lẽ cô chỉ tò mò. Dù sao đi nữa, cô chợt hiểu rằng người ở đầu dây bên kia nghĩ rằng hắn ta đã gọi vào máy trả lời tự động và đang đợi tiếng bíp! Cô bèn nhấn một phím. Bíp.
“Xin chào, Sverre Olsen đây.”
• • •
“Chào Harry, đây là…”
Harry quay người lại, nhưng phần câu còn lại của Kurt Meirik bị chìm trong tiếng bass, khi tay DJ tự phong tăng âm lượng nhạc đang ầm ĩ phát ra từ cái loa ngay sau lưng Harry.
That don’t impress me much…
Harry tới bữa tiệc mới được hai mươi phút, đã xem đồng hồ đeo tay hai lần và xoay xở cố tự hỏi mình những câu sau đây đến bốn lần: Vụ thanh toán Dale có liên quan gì đến vụ mua khẩu súng trường Marklin không?Kẻ nào có khả năng cắt cổ người khác, nhanh và khéo léo đến mức hắn dám làm vậy ngay giữa ban ngày trong hẻm ở trung tâm Oslo? Hoàng Tử là ai? Liệu việc kết án con trai của Mosken có liên quan gì đến vụ này? Chuyện gì đã xảy ra đối với người lính Na Uy thứ năm ở mặt trận, Gudbrand Johansen? Và tại sao sau chiến tranh Mosken lại không cố gắng tìm kiếm ông ta, nếu đúng như ông ta khăng khăng, Johansen đã cứu mạng mình?
Lúc này anh đang đứng trong góc bên cạnh một chiếc loa, với một bia Munkholm - đựng trong cốc nhằm tránh những câu hỏi sao anh lại uống bia không cồn - trong khi xem một cặp nhân viên POT trẻ nhất khiêu vũ.
“Xin lỗi, tôi không nghe kịp,” Harry nói.
Kurt Meirik đang xoay xoay chân ly đồ uống giữa mấy ngón tay. Ông ta đứng thẳng hơn bao giờ hết, trong bộ com lê sọc xanh. Hết sức vừa vặn, theo như Harry thấy. Harry kéo tay áo vest xuống, biết rằng áo sơ mi của anh đang l ò i ra quá măng sét. Meirik cúi đến gần hơn.
“Tôi đang cố nói với cậu rằng đây là người đứng đầu phòng đối ngoại của chúng ta đấy, thanh tra…”
Harry nhận thấy người phụ nữ bên cạnh ông ta. Dáng người mảnh mai. Váy màu đỏ trơn. Anh có một dự cảm mơ hồ.
Vậy là cô có nhan sắc, nhưng liệu cô có phong cách không?
Đôi mắt nâu. Gò má cao. Nước da sậm màu. Mái tóc đen ngắn ôm lấy một khuôn mặt nhỏ. Nụ cười của cô đã hiện lên trong ánh mắt. Anh vẫn nhớ cô trông ưa nhìn, nhưng không… mê hồn đến thế. Đó là từ duy nhất anh nghĩ ra được mà bao hàm ý nghĩa: mê hồn. Anh biết thực tế rằng giờ cô đang đứng đối diện anh hẳn đã khiến anh sững sờ không nói nên lời. Nhưng không hiểu sao có một logic nào đó trong chuyện này, một điều làm thâm tâm anh thừa nhận toàn bộ tình huống với một cái gật đầu.
“… Rakel Fauke!” Me ir ik nói.
“Chúng tôi đã gặp nhau rồi!” Harry đáp.
“Ồ?” Kurt Meirik thốt lên ngạc nhiên.
Rakel và Harry nhìn nhau.
“Chúng tôi gặp nhau rồi,” cô nói, “nhưng tôi không nghĩ chúng tôi đi xa đến mức giới thiệu tên với nhau.”
Cô chìa ra bàn tay với cổ tay hơi góc cạnh, một lần nữa khiến anh nghĩ đến dương cầm và những bài học ba lê.
“Harry Hole,” anh nói.
“A.” cô đáp. “Dĩ nhiên là vậy rồi. Bên Đội Hình sự, đúng không?”
Đúng.”
“Khi chúng ta gặp nhau tôi đã không nhận ra anh là thanh tra mới của POT. Giá mà anh nói thế thì…”
“Thì sao?” Harry hỏi.
Cô nghiêng đầu sang một bên. “Phải rồi, thì sao?” Cô bật cười. Tiếng cười của cô một lần nữa khiến cái từ ngu ngốc ấy hiện lên trong đầu Harry: mê hồn.
“Thì ít nhất tôi sẽ nói với anh rằng chúng ta làm chung một chỗ,” cô nói. “Thường tôi không nói cho người ta biết tôi làm gì để kiếm sống. Ta sẽ gặp quá nhiều những câu hỏi lạ lùng. Tôi chắc chắn với anh cũng thế.”
“Vâng, dĩ nhiên.”
Cô lại cười. Harry tự hỏi phải làm gì để khiến cô cứ cười mãi như thế này.
“Làm sao mà trước kia tôi chưa từng thấy anh ở POT nhỉ?” cô hỏi.
“Văn phòng của Harry tận cuối hành lang cơ,” Kurt Meirik đáp.
“À.” Cô gật đầu như thể đã hiểu, vẫn với nụ cười lung linh trong mắt. “Văn phòng ngay phía cuối hành lang, thật sao?”
Harry nghiêng đầu ủ rũ.
“Được rồi,” Meirik nói. “Vậy là hai người đã xong phần giới thiệu. Chúng tôi đang tới quầy bar, Harry.”
Harry đợi một lời mời. Nhưng không thấy.
“Nói chuyện với cậu sau nhé!” Meirik nói.
Dễ hiểu thôi, Harry nghĩ. Người đứng đầu POT và thanh tra có thể có rất nhiều cái vỗ vai với nhau đêm nay, theo kiểu cấp trên-cấp dưới trong tập đoàn. Anh dựa người vào chiếc loa, nhưng lén nhìn theo họ. Cô đã nhận ra anh. Cô đã nhớ họ chưa hề nói tên cho nhau. Anh uống một hơi cạn cốc bia. Nó chẳng có vị gì cả.
• • •
Waaler đóng sầm cửa lại.
“Chẳng ma nào nhìn thấy, nói chuyện hoặc từng nghe nói đến Ayub,” anh ta nói. “Lái xe đi.”
“Được,” Ellen đáp, kiểm trong gương rồi vòng xe rời khỏi lề đường.
“Cô cũng bắt đầu thích nghe Prince rồi, tôi nghe thấy rồi đấy.”
“Tôi ư?”
“Cô đã vặn to âm lượng lên khi tôi đi khỏi.”
“À.” Cô phải gọi cho Harry.
“Có vấn đề gì quan trọng không?”
Ellen nhìn trân trân trước mặt, vào mặt đường màu đen ướt đẫm lấp lánh trong ánh đèn đường.
“Vấn đề? Có thể là vấn đề gì chứ?”
“Tôi không biết. Trông cô cứ như vừa xảy ra chuyện gì.”
“Chẳng có chuyện gì đâu Tom.”
“Có ai gọi điện à? Này!” Tom ngồi cứng người lại trên ghế, úp cả hai lòng bàn tay lên bảng đồng hồ. “Cô không thấy cái xe kia hay sao vậy?”
“Xin lỗi.”
“Tôi tiếp tục được không?”
“Lái xe á? Tại sao?”
“Vì cô lái xe cứ như một…”
“Như một cái gì?”
“Thôi quên đi. Tôi hỏi là có ai gọi điện không.”
“Chẳng ai gọi cả, Tom. Nếu ai gọi, tôi hẳn đã nói rồi, đúng chưa?”
Cô phải gọi cho Harry. Thật nhanh.
“Tại sao cô lại tắt di động của tôi?”
“Cái gì cơ?” Ellen nhìn anh ta thất kinh.
“Để mắt nhìn đường đi, Gjelten. Tôi hỏi: tại sao…”
“Có ai gọi đâu. Chắc tự anh tắt điện thoại đấy thôi.” Vô tình cô cao giọng. Cô nghe thấy nó rít lên trong tai mình.
“Được rồi, Gjelten,” anh ta nói. “Bình tĩnh đi, tôi chỉ thắc mắc thôi mà.”
Ellen cố gắng làm như anh ta hướng dẫn. Thở đều và tập trung vào xe cộ trước mặt. Cô rẽ trái rời khỏi bùng binh xuống phố Vahls. Buổi tối thứ Bảy nhưng các con phố ở vùng này trong thành phố gần như vắng vẻ. Đèn xanh. Rẽ phải dọc theo phố Jens Bjelkes. Bên trái, xuống Toyengata. Đi vào trong bãi đỗ xe của Sở Cảnh sát. Cô có thể cảm thấy ánh mắt Tom dò xét cô suốt quãng đường.
• • •
Harry không nhìn đồng hồ đeo tay phút nào kể từ khi gặp Rakel Fauke. Anh thậm chí còn đi cùng Linda làm một vòng giới thiệu với vài đồng nghiệp. Cuộc đối thoại gượng gạo. Họ hỏi chức vụ của anh là gì, và khi anh trả lời xong thì cuộc trò chuyện yếu dần. Có thể có quy luật bất thành văn trong POT là ta không được hỏi quá nhiều. Hoặc họ cũng chẳng buồn để ý. Thế cũng tốt, anh cũng chẳng quan tâm đặc biệt gì đến họ. Anh về lại chỗ cũ bên cái loa. Anh có thoáng thấy bộ váy đỏ của cô một đôi lần. Theo như anh nhận định, cô đang đi quanh và không đứng lại lâu với bất kỳ ai. Cô không khiêu vũ, anh hoàn toàn chắc chắn về điều đó.
Chúa ơi, mình đang hành xử như một thằng nhóc tuổi teen, anh nghĩ.
Rồi anh nhìn đồng hồ đeo tay: 9 giờ 30. Anh có thể đến chỗ cô, nói một vài lời xem chuyện gì xảy ra. Và nếu không xảy ra chuyện gì, anh có thể lỉnh đi, dẹp chuyện khiêu vũ với Linda như đã hứa đi rồi về nhà. Chẳng xảy ra chuyện gì ư? Cái kiểu tự dối mình gì thế này? Một thanh tra khác, đang chung sống với một anh bồ. Anh cần uống một ly. Không. Anh liếc nhanh đồng hồ lần nữa. Anh rùng mình trước ý nghĩ về chầu khiêu vũ đã hứa. Quay về căn hộ thôi. Hầu hết mọi người hiện đang vui vẻ say sưa. Ngay cả trong tình trạng tỉnh táo hơn chắc họ cũng chẳng để ý đến việc tay thanh tra mới biến mất xuôi hành lang. Anh có thể cứ vậy bước ra cửa và đi thang máy xuống. Bên ngoài chiếc Ford Escort đang trung thành đợi chờ anh. Trông Linda như thể bà chị đang vui vẻ trên sàn nhảy, ôm chặt một chàng cảnh sát đang dẫn chị ta xoay vòng với nụ cười đẫm mồ hôi trên môi.
“Buổi trình diễn của Raga trong buổi Liên hoan khoa Luật sôi động hơn chút, anh không nghĩ vậy sao?”
Anh cảm thấy tim mình đập dồn khi nghe thấy giọng nói bí ẩn của cô bên cạnh.
• • •
Tom đứng cạnh ghế của Ellen trong văn phòng cô.
“Xin lỗi nếu tôi có thô lỗ trong xe lúc ở ngoài phố.”
Cô không nghe thấy tiếng anh ta đến nên giật mình. Tay cô đang cầm ống nghe, nhưng vẫn chưa quay số gọi.
“Yên tâm,” cô nói. “Chính là tôi có hơi… anh biết đấy.”
“Tiền mãn kinh à?”
Cô ngước mắt lên nhìn anh ta thì biết rằng đó không phải là nói đùa. Anh ta đang thực sự muốn cố gắng thông cảm.
“Có thể!” cô đáp. Tại sao bây giờ anh ta lại đang ở trong văn phòng cô, nơi mà anh ta chưa bao giờ đến?
“Hết ca rồi, Gjelten.” Anh ta hất đầu về phía đồng hồ trên tường. Đã 10 giờ rồi. “Tôi có xe đây. Để tôi đưa cô về nhà.”
“Cảm ơn nhiều, nhưng tôi phải gọi điện đã. Anh cứ về trước đi.”
“Cuộc gọi riêng tư à?”
“Không, chỉ là…”
“Thế tôi sẽ ngồi đây đợi.”
Waaler ngồi xuống chiếc ghế văn phòng cũ của Harry, nó kêu lên cót két. Bốn mắt họ chạm nhau. Khốn thật! Tại sao cô lại không nói đó là cuộc gọi riêng tư chứ? Giờ đã quá muộn. Phải chăng anh ta biết rằng cô đã bắt gặp thứ gì đó? Cô cố gắng đọc ra nét mặt anh ta, nhưng dường như cô đã mất khả năng này vì nỗi hốt hoảng đang tóm lấy cô. Hốt hoảng ư? Bây giờ cô đã hiểu tại sao mình không bao giờ thấy thoải mái với Tom Waaler. Không phải vì sự lạnh lùng của anh ta, quan điểm của anh ta về phụ nữ, người da đen, bọn thích khoe chỗ kín và những kẻ đồng tính hay xu hướng của anh ta lợi dụng bất kỳ cơ hội hợp pháp nào để sử dụng bạo lực. Không cần nghĩ nhiều cô cũng liệt kê được mười cái tên cảnh sát khác có thể xếp hàng ngay sau Waaler về những điểm này, nhưng dù thế cô cũng vẫn tìm được vài điểm tích cực nào đó cho phép cô hòa hợp với họ. Nhưng riêng với Tom Waaler, có một điều khác nữa và bây giờ cô biết là gì: cô sợ anh ta.
“Thôi được,” cô nói. “Chuyện đó để đến thứ Hai cũng được.”
“Tốt.” Anh ta lại đứng lên. “Ta đi thôi.”
Waaler có chiếc xe thể thao Nhật mà Ellen nghĩ trông như đồ nhái rẻ tiền của Ferrari. Xe có những kiểu ghế cố định ép vai ta lại và những cái loa như chiếm hết nửa xe. Động cơ kêu ro ro trìu mến, ánh sáng từ những ngọn đèn đường quét qua ngăn xe khi họ lái xe lên Trondheimsveien. Một giọng gió cô đang dần quen rụt rè phát ra loa.
Prince. Hoàng Tử.
“Tôi xuống ở đây được rồi,” Ellen nói, cố sao cho giọng nghe có vẻ tự nhiên.
“Không có chuyện đó đâu!” Waaler nói, nhìn vào gương. “Dịch vụ giao hàng tận nơi. Chúng ta sẽ đi đâu đây?”
Cô cố gắng cưỡng lại cái thôi thúc mở toang cửa mà nhảy ra ngoài.
“Rẽ trái ở đây,” Ellen nói, đưa tay chỉ.
Về nhà đi, Harry.
“Phố Jens Bjelkes,” Waaler đọc to bảng chỉ đường trên tường rồi rẽ ngoặt.
Đèn đóm tại đây rất tiết kiệm, những vỉa hè vắng ngắt. Từ khóe mắt Ellen trông thấy những ô ánh sáng nhỏ chiếu qua mặt anh ta. Anh ta biết là cô đã phát hiện ra rồi chăng? Và anh ta có thấy được cô đang ngồi đây một tay thọc vào túi xách không? Anh ta có nhận ra cô đang nắm chặt bình xịt hơi cay màu đen cô đã mua tại Đức không? Cô đã đưa nó cho anh ta xem hồi mùa thu, khi anh ta khăng khăng cô đang đặt bản thân lẫn đồng đội trong tình trạng nguy hiểm vì từ chối mang theo vũ khí. Chẳng phải anh ta đã kín đáo cho biết rằng mình có thể có một khẩu súng nhỏ bé gọn gàng, giấu đâu trong người cũng được? Nó không được đăng ký và do đó không thể truy ngược về phía cô, trong trường hợp có “rủi ro”. Lúc đó cô đã không xem những lời nói của anh là nghiêm túc; cô nghĩ đó chỉ là một trong những trò đùa có phần kinh dị của đàn ông và cười xòa cho qua.
“Dừng cạnh chiếc xe màu đỏ đằng kia đi.”
“Nhưng số 4 ở khu nhà tiếp theo cơ mà,” anh ta nói.
Cô đã nói với anh ta cô sống ở nhà số 4 à? Có lẽ. Có thể cô đã quên. Cô cảm thấy mình trong suốt, như con sứa, như thể anh ta có thể thấy tim cô đang đập loạn xạ.
Động cơ kêu rù rù ở số không. Anh ta đã dừng xe. Cô luống cuống tìm tay nắm cửa. Mấy gã người Nhật chết tiệt! Tại sao họ không thể thiết kế một tay nắm cửa giản dị, dễ nhận ra chứ?
“Hẹn gặp cô vào thứ Hai,” cô nghe giọng nói của Waaler sau lưng khi tìm được tay nắm cửa, bước nhào ra và hít vào bầu không khí Oslo tháng Ba độc hại, như thể vừa trồi lên sau khi ở dưới mặt nước quá lâu. Khi đóng sầm lại cánh cửa trước nặng nề, cô vẫn còn nghe thấy tiếng động cơ êm ru, tra dầu mỡ kỹ càng của Waaler chạy không bên ngoài.
Cô lao lên cầu thang, đôi ủng giậm mạnh xuống từng bậc cầu thang, giơ chùm chìa khóa trước mặt như que dò mạch. Thế rồi cô đã vào căn hộ của mình. Khi quay số gọi cho Harry, cô hình dung lại tin nhắn của Sverre Olsen từng chữ một.
Sverre Olsen đây. Em vẫn đang đợi mười nghìn tiền hoa hồng mua súng cho lão già. Về nhà thì gọi cho em.
Rồi hắn cúp máy.
Chỉ cần một phần tỉ giây là cô đã hiểu ra mối liên hệ. Đầu mối thứ năm cho câu đố về chuyện ai là kẻ trung gian trong thương vụ Marklin. Một cảnh sát viên. Tom Waaler. Dĩ nhiên rồi. Mười nghìn tiền hoa hồng cho một kẻ vô danh tiểu tốt như Olsen - hẳn nhiên là một vụ lớn. Lão già. Những kẻ mê vũ khí, ủng hộ phe cực hữu. Hoàng Tử không bao lâu nữa sẽ trở thành chánh thanh tra. Điều đó rõ ràng như ban ngày, hiển nhiên đến mức trong một lúc cô đã sốc vì cô, với khả năng nhận biết những âm tần không ai nghe được, thế mà lại không nhận ra ngay từ đầu. Cô biết mình đã mắc chứng hoang tưởng được một thời gian rồi, nhưng dẫu vậy cô vẫn không nhịn được mà nghĩ đến tận cùng suy nghĩ đó khi đợi Tom Waaler từ nhà hàng đi ra: Tom Waaler có mọi khả năng trèo lên cao hơn, giật dây từ những vị trí còn quan trọng hơn nhiều, ẩn nấp bên dưới những đôi cánh quyền lực. Ai mà biết được hắn ta đã liên kết với những đồng minh nào và với ai tại trụ sở cảnh sát. Nếu cô chịu nghĩ kỹ, dĩ nhiên sẽ có vài người mà cô không bao giờ tưởng tượng được họ có liên quan. Nhưng người duy nhất cô có thể tin tưởng 100 - một trăm - phần trăm là Harry.
Nối máy rồi. Máy không bận. Điện thoại của anh ở căn hộ chẳng bao giờ bận. Thôi nào, Harry!
Cô còn biết rằng sớm muộn gì rồi Waaler cũng nói chuyện với Olsen và biết được đã xảy ra chuyện gì. Và cô không nghi ngờ một giây nào rằng kể từ lúc đó mạng sống của cô sẽ như chỉ mành treo chuông. Cô sẽ phải hành động thật nhanh, nhưng cô cũng không thể cho phép mình mắc bất kỳ sai lầm nào. Một giọng nói cất lên cắt đứt dòng suy luận của cô.
“Hole đây. Xin nói đi.”
“Quỷ tha ma bắt anh đi, Harry! Ellen đây. Giờ ta đã tìm được hắn rồi. Tôi sẽ gọi cho anh trên di động.”
Cô kẹp chặt ống nghe giữa vai và cằm khi lật lật qua danh mục số điện thoại có vần H, đánh rơi cuốn sổ xuống sàn đánh rầm, cô chửi thề và cuối cùng cũng tìm được số điện thoại di động của Harry. Thật may là anh luôn mang theo di động bên mình.
Ellen Gjelten sống trên tầng hai khu căn hộ mới được sửa sang cùng một con chim sẻ ngô thuần lớn có tên là Helge. Bốn bức tường căn hộ dày nửa mét, các cửa sổ được tráng hai lớp. Tuy nhiên, cô dám cam đoan rằng mình nghe thấy tiếng rù rù của chiếc xe đang chạy số không kia.
• • •
Rakel Fauke bật cười.
“Nếu anh đã hứa khiêu vũ với chị Linda, anh sẽ không lướt qua sàn một cái mà được đâu.”
“Ừm. Lựa chọn khác là chạy mà giữ mạng.”
Theo sau đó là một khoảng lặng, và Harry hiểu ra rằng những gì anh vừa nói rất dễ bị hiểu sai. Anh vội lấp đầy khoảng trống bằng một câu hỏi.
“Cô đã bắt đầu tại POT như thế nào?”
“Thông qua người Nga!” cô đáp. “Tôi tham gia khóa đào tạo của Bộ Quốc phòng Nga rồi làm thông dịch viên tại Moscow được hai năm. Kurt Meirik hồi ấy tuyển mộ tôi tại đó. Sau khi có bằng luật tôi được thăng lên ngay bậc lương cho nhân viên có ba mươi nhăm năm kinh nghiệm. Tôi nghĩ mình đã bắt được con ngỗng đẻ trứng vàng.”
“Không phải vậy sao?”
“Anh đùa đấy à? Ngày nay các bạn học cùng tôi kiếm được bằng ba lần tôi ấy.”
“Cô có thể dừng lại, và làm những gì họ làm.”
Cô khom vai về phía trước. “Tôi thích việc tôi đang làm. Không phải ai trong số họ cũng nói được như vậy đâu.”
“Một ý hay.”
Im lặng.
Một ý hay. Có thật là anh chỉ thốt ra được thế thôi?
“Còn anh thì sao Harry? Anh có thích việc mình đang làm không?”
Họ đang đứng nhìn về sàn nhảy, nhưng Harry cảm thấy được đôi mắt cô đang dò xét anh, đánh giá anh. Đủ kiểu suy nghĩ lộn xộn lướt qua đầu óc anh. Cô có những vết chân chim nhỏ trên khóe mắt. Căn nhà gỗ của Mosken không xa nơi họ tìm thấy những vỏ đạn rỗng từ khẩu súng trường Marklin. Theo Dagb l adet, có 40% phụ nữ sống ở thành phố không chung thủy. Anh nên hỏi vợ của Even Juul xem bà ấy có còn nhớ ba người lính Na Uy của trung đoàn Norge bị thương, hoặc tử trận do một trái lựu đạn ném từ phi cơ xuống, và lẽ ra anh nên đi mua đồ nam Dressman bán hạ giá nhân dịp năm mới quảng cáo trên đài TV3. Nhưng anh có thích việc mình đang làm không ư?
“Có những ngày thì tôi thích,” anh đáp.
“Anh thích ở điểm gì?”
“Tôi không biết. Nghe có ngớ ngẩn không?”
“Tôi không biết.”
“Tôi không nói thế vì tôi chưa nghĩ đến việc tại sao tôi lại làm cảnh sát. Tôi đã nghĩ. Và tôi không biết. Có lẽ tôi chỉ thích bắt mấy cậu nhóc, cô nhóc hư hỏng thôi.”
“Vậy thì anh làm gì những khi không truy bắt mấy cậu nhóc, cô nhóc hư hỏng?” cô hỏi.
“Xem chương trình Cuộc thám hiểm Robinson.”
Cô lại bật cười. Và Harry biết anh sẽ sẵn sàng nói những lời ngu ngốc nhất nếu có dịp để khiến cô cười như thế lần nữa. Anh trấn tĩnh lại rồi nói chuyện khá nghiêm túc về tình hình hiện thời của mình, nhưng vì anh cẩn thận không đề cập đến những khía cạnh khó chịu trong cuộc đời mình, nên cũng chẳng có gì nhiều để kể. Khi dường như cô vẫn hứng thú, anh tiếp tục kể sang bố và Sis. Tại sao lúc nào cuối cùng anh cũng kể về Sis khi người ta đề nghị anh nói về chính mình nhỉ?
“Có vẻ là một cô bé ngoan?” cô nói.
“Ngoan nhất đấy,” Harry đáp. “Và can đảm nhất nữa. Chẳng bao giờ sợ hãi nhưng gì mới mẻ. Người luôn luôn thích thử nghiệm cuộc sống.”
Harry kể cho cô nghe về thời gian Sis ngẫu hứng gửi đề nghị mua một căn hộ tại phố Jacob Aalls - vì giấy dán tường trong bức ảnh con bé xem trên trang bất động sản Aftenposten nhắc con bé nhớ đến căn phòng thời thơ ấu ở oppsal - và được biết mức giá chào hàng là hai triệu krone, mức giá mét vuông sàn kỷ lục cho Oslo mùa hè năm đó.
Rakel Fauke cười đến nỗi làm bắn cả rượu Tequilla lên áo vest của Harry.
“Điều hay nhất ở con bé chính là sau mỗi lần vấp ngã, con bé đều tự đứng dậy, tự phủi bụi bẩn trên quần áo rồi lại sẵn sàng cho phi vụ cảm tử tiếp theo.”
Cô lấy khăn tay lau khô ve áo cho anh. “Thế còn anh, Harry, khi anh vấp ngã thì anh làm gì?”
“Tôi à? Có lẽ tôi vẫn nằm yên đó một lúc. Và sau đó tôi sẽ đứng dậy vì chẳng còn lựa chọn nào khác, đúng không nhỉ?”
“Một cái hay.”
Anh liếc nhanh lên xem cô có nhạo anh không. Sự thích thú đang lung linh trong mắt cô. Cô toát ra sự mạnh mẽ, nhưng anh không tin cô đã từng trải qua nhiều vấp ngã.
“Đến lượt cô kể đôi chút về chính mình rồi đấy.”
Rakel không có em gái để cầu cứu, cô là con một. Nên thay vào đó cô kể về công việc.
“Nhưng chúng tôi hiếm khi bắt được ai,” cô nói. “Hầu hết các vụ đều được giải quyết hữu nghị bằng một cuộc gọi, hoặc bằng một bữa tiệc cocktail tại đại sứ quán.”
Harry mỉm cười mỉa mai.
“Thế còn vấn đề tên mật vụ bị tôi bắn được giải quyết êm xuôi thế nào?” anh hỏi. “Cuộc gọi hay bữa tiệc cocktail?”
Cô trầm ngâm dò xét anh trong khi thò tay vào cốc rượu lấy ra một viên đá. Cô cầm lên giữa hai ngón tay. Một giọt nước đá tan ra thong thả chảy xuống cườm tay cô, dưới chiếc lắc tay bằng vàng mỏng manh, về phía khuỷu tay.
“Khiêu vũ không, Harry?”
“Theo như tôi nhớ thì tôi vừa mất ít nhất mười phút giải thích mình ghét khiêu vũ đến thế nào!”
Cô lại nghiêng đầu.
“Ý tôi là - anh sẽ khiêu vũ với tôi chứ?”
“Theo nhạc này à?”
Bản nhạc “Let It Be” chơi bằng sáo ống chậm chạp chảy ra từ loa như một thứ xi rô đặc sệt.
“Không chết đâu mà sợ. Cứ xem như đây là kiểu khởi động trước bài kiểm tra lớn của Linda.”
Cô nhẹ nhàng đặt bàn tay lên vai anh.
“Có phải chúng ta đang tán tỉnh nhau không?” Harry hỏi.
“Anh nói gì vậy, thanh tra?”
“Xin lỗi. Nhưng tôi đoán hiểu các tín hiệu ngầm dở đến mức phải hỏi có phải chúng ta đang tán tỉnh nhau không.”
“Khả năng cao là không phải đâu.”
Anh đặt tay mình quanh eo cô, e dè bước một bước nhảy.
“Chuyện này khiến tôi cảm thấy như đang mất tân vậy!” anh nói. “Mà có lẽ cũng chẳng tránh được - không sớm thì muộn đàn ông Na Uy ai ai cũng phải trải qua chuyện thế này.”
“Anh đang nói cái gì thế?” cô phá lên cười.
“Khiêu vũ với một đồng nghiệp tại buổi tiệc văn phòng.”
“Tôi có ép anh đâu.”
Anh mỉm cười. Nó có thể là ở bất kỳ đâu, họ có thể đang chơi ngược bản nhạc “The Birdie Song” bằng đàn ghi ta Hawaii cũng chẳng sao - vì vũ điệu này anh có thể chết.
“Chờ đã - anh có cái gì đấy thế?” cô hỏi.
“À, không phải là súng ngắn đâu và tôi thật mừng được gặp cô, nhưng…”
Harry tháo chiếc di động khỏi thắt lưng và buông tay khỏi eo cô, đến chỗ chiếc loa để đặt cái di động lên. Hai cánh tay cô vẫn giơ về phía anh khi anh quay lại.
“Hy vọng ở đây chúng ta không có trộm!” anh nói. Đó là một câu đùa cũ rích tại Sử Cảnh sát, chắc cô đã phải nghe nó đến hàng trăm lần rồi, nhưng dù sao cô vẫn cười thật êm dịu vào tai anh.
• • •
Ellen để chuông điện thoại reo cho đến khi nó dừng rồi mới bỏ ống nghe xuống. Rồi cô thử lại. Cô đứng bên cửa sổ, nhìn xuống con phố. Không có xe ô tô. Dĩ nhiên là không rồi. Cô đã quá căng thẳng. Có lẽ giờ này Tom đang trên đường về nhà lên giường. Hoặc lên giường của ai đó.
Sau ba lần gọi cho Harry rồi bỏ cuộc, cô bèn gọi cho Kim. Nghe giọng anh có vẻ mệt mỏi.
“Anh bắt taxi quay về lúc bảy giờ tối nay!” anh nói. “Hôm nay anh chạy xe suốt hai mươi giờ.”
“Em sẽ đi tắm,” cô đáp. “Chỉ muốn biết xem anh có ở nhà không.”
“Nghe giọng em có vẻ căng thẳng.”
“Chẳng có gì đâu. Bốn mươi lăm phút nữa em sẽ tới chỗ anh. Mà em sẽ phải dùng điện thoại của anh đấy. Và sẽ ở đó qua đêm.”
“Tuyệt. Nếu không phiền em có thể ghé vào siêu thị 7-Eleven ở Markveien mua ít thuốc lá không?”
“Được. Em sẽ bắt taxi.”
“Tại sao?”
“Giải thích với anh sau nhá.”
“Em có biết hôm nay là tối thứ Bảy không? Em sẽ không bao giờ gọi được Taxi Oslo. Còn em chạy lên đây mất bốn phút.”
Cô phân vân.
“Kim này?” cô nói.
“Gì?”
“Anh có yêu em không?”
Cô nghe thấy tiếng anh khẽ cười tủm tỉm, hình dung được đôi mắt buồn ngủ, nửa nhắm nửa mở của anh và tấm thân gầy còm, gần như gầy rộc của anh dưới chiếc chăn lông vũ, trong căn hộ khốn khổ ở phố Helgesens. Căn hộ của anh có tầm nhìn ra sông Akerselva. Anh có mọi thứ mà cô muốn. Và trong chốc lát cô gần như quên Tom Waaler. Gần như thế.
• • •
“Sverre!”
Mẹ của Sverre Olsen đứng dưới cầu thang, đang quát muốn xé phổi như bà vẫn hay làm thế theo như hắn nhớ được.
“Sverre! Có điện thoại!”
Bà quát lên như thể bà cần ai giúp, sắp chết đuối hay cái gì đó đại loại thế.
“Con sẽ nhận cuộc gọi trên này, mẹ ạ.”
Hắn vung hai chân xuống giường, lấy chiếc điện thoại trên mặt bàn và đợi nghe tiếng cạch cho thấy mẹ hắn đã bỏ ống nghe xuống.
“A lô?”
“Tao đây.” Đằng sau có tiếng nhạc của Prince. Luôn là Prince.
“Em cũng đoán là thế,” Sverre đáp.
“Sao thế?”
Câu hỏi chợt đến nhanh như chớp. Nhanh đến mức Sverre ngay lập tức rơi vào thế phòng thủ, như thể chính hắn là người nợ tiền chứ không phải ngược lại.
“Có thể sếp gọi vì sếp nhận được tin nhắn của em?” Sverre nói.
“Tao gọi vì tao đang nhìn vào danh bạ các cuộc gọi tao nhận được trên di động. Tao thấy mày đã nói chuyện với ai đó vào lúc 20 giờ 32 tối nay. Mày đã lải nhải gì thế?”
“Về vụ tiền mặt. Em đang túng quá, còn sếp thì đã hứa…”
“Mày đã nói chuyện với ai?”
“Hả? Quý cô trên máy trả lời tự động, em nghĩ vậy. Khá rõ ràng rành mạch đấy. Có phải là người mới của…”
Không trả lời. Chỉ có nhạc của Prince ở âm lượng thấp. Nhạc phẩm You sexy motheryucker… Tiếng nhạc đột ngột tắt ngấm.
“Nói cho tao biết chính xác mày đã nói gì.”
“Em chỉ nói rằng…”
“Không! Chính xác. Từng chữ một.”
Sverre cố hết sức lặp lại thật chính xác.
“Tao cũng đoán vậy mà,” Hoàng Tử nói. “Mày vừa đi tiết lộ cả chiến dịch của tao và mày cho người ngoài đấy, Olsen. Nếu tao và mày không bịt ngay cái lỗ rò này, sẽ khốn ngay đấy. Mày có hiểu không hả?”
Sverre Olsen chẳng hiểu gì cả.
Hoàng Tử cực kỳ bình tĩnh khi giải thích rằng điện thoại di động của hắn đã rơi vào tay nhầm người.
“Cái mày nghe không phải máy trả lời tự động đâu, Olsen.”
“Thế thì là ai?”
“Chỉ cần biết là kẻ thù.”
“Monitor. Có kẻ đang dò la à?”
“Kẻ mà tao với mày đang nói đến vừa trên đường đi gặp cảnh sát. Nhiệm vụ của mày là chặn cô ta lại.”
“Em à? Em chỉ muốn tiền của em và…”
“Câm mồm mày lại, Olsen.”
Olsen làm theo.
“Đây là vì Sự nghiệp. Mày là một người lính giỏi, đúng không?”
“Vâng, nhưng…”
“Và một người lính giỏi thì sau đó luôn dọn dẹp sạch sẽ, đúng không?”
“Em chỉ đang đưa tin giữa sếp với lão già lẩm cẩm đó. Sếp là người mà…”
“Đặc biệt khi người lính đang có cáo buộc ba năm lơ lửng trên đầu, nói đúng theo thuật ngữ chuyên môn là có điều kiện đấy.”
Sverre nghe chính mình nuốt khan.
“Làm sao sếp biết điều đó?” hắn hỏi.
“Mày không cần bận tâm chuyện đó. Tao chỉ muốn mày nhận ra rằng mày cũng như băng đảng của mày có nhiều thứ để mất vì chuyện này đấy.”
Sverre không đáp. Hắn không cần phải đáp.
“Hãy nhìn vào khía cạnh tươi sáng đi, Olsen. Đây là cuộc chiến. Không có chỗ cho những kẻ hèn nhát và phản bội. Ngoài ra, băng đảng sẽ ban thưởng cho lính của mình. Ngoài khoản mười nghìn, mày sẽ nhận thêm bốn mươi nghìn nữa khi xong việc.”
Sverre suy đi tính lại khoản tiền này. Nghĩ đi nghĩ lại hắn nên mặc quần áo gì.
“Ở đâu?” hắn hỏi.
“Quảng trường Schous hai mươi phút nữa. Mang theo bất kỳ thứ gì mày cần.”
• • •
“Anh không uống à?” Rakel hỏi.
Harry nhìn xung quanh. Vũ điệu cuối cùng của họ căng thẳng tới mức có thể khiến người xem phải nhướng mày lên. Lúc này họ rút lui vào một bàn phía sau căng tin.
“Tôi bỏ rồi!” Harry đáp.
Cô gật đầu.
“Chuyện dài lắm,” anh nói thêm.
“Tôi có nhiều thời gian mà.”
“Tối nay tôi chỉ thấy muốn nghe chuyện vui,” anh mỉm cười. “Thay vào đó ta nói về chuyện của cô đi. Cô có loại chuyện tuổi thơ nào để kể không?”
Harry gần như tưởng cô sẽ phá lên cười, nhưng anh chỉ nhận được nụ cười mệt mỏi.
“Mẹ tôi mất khi tôi mới mười lăm tuổi. Ngoài chuyện này ra, tôi có thể nói với anh hết những chuyện còn lại.”
“Tôi rất tiếc khi nghe điều đó.”
“Có gì để tiếc đâu. Bà là một người phụ nữ khác thường, nhưng những câu chuyện vui mới là kế hoạch của tối nay…”
“Cô có anh chị em nào không?”
“Không, chỉ có bố con tôi thôi.”
“Vậy chắc cô phải một mình chăm sóc ông ấy?”
Cô ngạc nhiên dò xét anh.
“Tôi biết chuyện đó thế nào mà,” anh nói. “Tôi cũng mất mẹ. Bố tôi ngồi trên ghế nhìn đăm đăm vào tường suốt nhiều năm. Tôi phải bón thức ăn cho ông ấy, đúng nghĩa đen đấy.”
“Bố tôi điều hành một dây chuyền vật liệu xây dựng lớn mà ông khởi nghiệp từ tay trắng, và tôi tin rằng đó là cả cuộc đời ông ấy. Nhưng khi mẹ tôi qua đời, trong một sớm một chiều ông đã mất hết hứng thú. Ông đã bán hết đi trước khi nó tiêu tan. Và ông xua đuổi tất cả những ai ông quen biết. Kể cả tôi. Ông biến thành một ông già cay đắng, cô độc.”
Cô chìa tay ra.
“Tôi còn phải sống đời của riêng mình. Tôi đã gặp một người đàn ông tại Moscow, và bố tôi cảm thấy mình bị phản bội khi biết tôi muốn lấy một người Nga. Khi tôi đưa Oleg quay về Na Uy, mối quan hệ giữa tôi và bố tôi trở nên rất khó khăn.”
Harry đứng dậy rồi quay lại với một ly margarita cho cô, và một coca cho mình.
“Thật tiếc là chúng ta không hề gặp nhau ở trường luật, Harry.”
“Hồi ấy tôi là một con rối,” Harry nói. “Rất hay gây hấn với bất kỳ ai không thích những đĩa nhạc hay bộ phim giống như tôi. Chẳng ai ưa tôi cả. Ngay cả tôi.”
“Giờ thì tôi không tin điều đó.”
“Câu ấy tôi lấy cắp trong một bộ phim. Anh chàng đã nói câu đó lúc đang chuyện trò với Mia Farrow. Tức là ở trong phim thôi. Tôi chưa từng thử điều đó ngoài đời thực.”
“Được,” cô nói, thận trọng nếm thử rượu margarita. “Tôi nghĩ rằng đó là một khởi đầu tốt. Nhưng anh có chắc mình không ăn cắp luôn cả phần vé ăn cắp nữa đấy chứ?”
Họ phá lên cười và cùng thảo luận những bộ phim hay và dở, những buổi trình diễn ca nhạc hay và dở mà họ đã từng đi xem, và một lúc sau Harry nhận thức được mình sẽ phải điều chỉnh lại các ấn tượng ban đầu về cô. Chẳng hạn, cô đã du lịch vòng quanh thế giới một mình khi mới hai mươi tuổi, ở độ tuổi mà nói về những trải nghiệm trưởng thành thì tất cả những gì Harry có để khoe chỉ là một chuyến đi bằng Inter-Rail(36)
Cô xem đồng hồ đeo tay.
“Mười một giờ rồi. Tôi đang có người đợi.”
Harry cảm thấy tim mình thắt lại. “Tôi cũng thế,” anh nói, đứng lên.
“Ồ?”
“Chỉ là một con quỷ tôi giấu dưới gầm giường thôi. Để tôi lái xe đưa cô về nhà.”
Cô mỉm cười. “Không cần thiết đâu.”
“Gần như là cùng đường mà.”
“Anh cũng sống tại Holmenkollen à?”
“Gần đó thôi. Hoặc khá gần. Bislett.”
Cô bật cười.
“Thế thì là bên kia thành phố rồi. Tôi biết mục đích của anh là gì mà.”
Harry mỉm cười ngô nghê. Cô đặt một bàn tay lên cánh tay anh. “Anh cần một người đẩy xe cho anh, đúng không nào?”
• • •
“Có vẻ như anh ấy đi rồi, Helge.”
Cô đứng cạnh cửa sổ mà vẫn mặc áo khoác, hé nhìn ra giữa những bức rèm. Con phố dưới kia trống trải; chiếc taxi đang đợi ở đó đã khởi hành cùng với ba cô gái vui vẻ đi dự tiệc. Helge không đáp lại. Con chim một cánh chớp chớp mắt, gãi gãi bụng bằng một chân.
Cô cố gọi vào số di động của Harry một lần nữa, nhưng vẫn là giọng người phụ nữ lặp lại rằng điện thoại đang tắt máy hoặc đang nằm ngoài vùng phủ sóng.
Ellen bèn chụp một tấm vải lên trên cái lồng, nói chúc ngủ ngon với Helge rồi tắt đèn và rời phòng. Phố Jens Bjelkes vẫn vắng vẻ khi cô đi vội đến phố Thorvald Meyers mà cô biết vào giờ này tối thứ Bảy sẽ đông người. Bên ngoài nhà hàng Fru Hagen, cô gật đầu chào vài người mà hẳn cô đã trao đổi vài lời với họ vào một buổi tối ẩm ướt, trên những con phố đèn đuốc sáng trưng ở Grunerlokka này. Cô chợt nhớ mình đã hứa mua cho Kim ít thuốc lá nên cô quay lại đi xuống siêu thị 7-Eleven tại Markveien. Cô trông thấy một gương mặt mới mà cô bỗng lờ mờ nhận ra và bất giác mỉm cười khi thấy hắn ta nhìn cô.
Trong siêu thị 7-Eleven, cô ngập ngừng cố nhớ lại Kim hút Camel hay là Camel Lights, nhận ra họ đã dành cho nhau ít thời gian ra sao. Và vẫn còn quá nhiều điều họ phải biết về nhau thế nào. Và rằng đây là lần đầu tiên trong cuộc đời cô điều đó không làm cô khiếp sợ, mà là một điều cô hằng mong đợi. Cô thấy vô cùng hạnh phúc. Ý nghĩ về anh đang nằm trần truồng trên giường cách chỗ cô đang đứng ba khối nhà lấp đầy trong cô những khao khát uể oải nhưng ngọt ngào. Cô chọn bao Camel, sốt ruột chờ đến lượt được phục vụ. Ra ngoài đường, cô đã chọn lối tắt dọc theo sông Akerselva.
Cô chợt nhận ra trong một thành phố lớn khoảng cách giữa đông nghẹt người và hoàn toàn cô lập mới ngắn làm sao. Bất thần tất cả những gì cô nghe thấy là tiếng con sông chảy róc rách và tiếng tuyết lạo xạo dưới ủng. Đã quá muộn để hối tiếc vì mình chọn đường tắt khi giờ đây cô mới nhận ra rằng cô không chỉ nghe thấy tiếng bước chân mình. Bây giờ cô còn nghe được hơi thở, nặng nề và hổn hển. Khiếp sợ và giận dữ, Ellen nghĩ, không, cô biết rằng vào lúc đó mạng sống của cô đang gặp nguy hiểm. Cô không quay người lại, chỉ co giò chạy. Những bước chân sau lưng cô ngay lập tức cũng bắt nhịp. Cô cố gắng chạy bình tĩnh, cố gắng không hốt hoảng hoặc không chạy vung chân tay. Đừng chạy như một bà già, cô nghĩ, bàn tay cô tìm kiếm bình xịt hơi cay trong túi áo khoác, nhưng những bước chân đằng sau cô vẫn không dừng lại, đang tiến đến mỗi lúc một gần. Cô nghĩ rằng nếu cô đến được quầng sáng hình nón duy nhất trên lối đi, cô sẽ được cứu. Cô biết điều đó không đúng. Cô vừa đứng được dưới ánh đèn thì cú đánh đầu tiên nhằm xuống vai cô đã hất văng cô qua đống tuyết. Cú đánh thứ hai làm tê liệt cánh tay cô, bình xịt hơi cay lăn khỏi bàn tay không còn cảm giác. Cú đánh thứ ba đập nát xương bánh chè bên trái; cơn đau đớn làm nghẹn tắc tiếng thét trong cổ họng cô, khiến các mạch máu phồng lên trên làn da cổ nhợt nhạt vì mùa đông. Cô thấy hắn giơ lên cây gậy đánh bóng chày bằng gỗ trong ánh đèn đường vàng vọt. Giờ thì cô nhận ra hắn rồi, chính là người đàn ông cô đã thấy quay người lại bên ngoài Fru Hagen. Người cảnh sát trong cô nhận thấy hắn đang mặc một áo khoác màu xanh ngắn, đi ủng đen và đội mũ lính đen. Cú đánh đầu tiên vào đầu hủy hoại dây thần kinh thị giác, và bây giờ tất cả những gì cô thấy chỉ là một màn đêm đen kịt.
40% chim chích bờ giậu sống sót, cô nghĩ. Mình sẽ sống qua được mùa đông này.
Những ngón tay của cô mò mẫm trong tuyết tìm thứ gì đó để bám víu. Cú đánh thứ hai đánh vào sau đầu cô.
Không còn phải đi xa nữa rồi, cô nghĩ. Mình sẽ sống qua được mùa đông này.
• • •
Harry dừng xe cạnh đường xe vào nhà của Rakel Fauke tại Holmenkollveien. Ánh trăng bạc khoác lên làn da cô một ánh lấp lánh nhàn nhạt, như không có thực. Và ngay cả từ cảnh tranh tối tranh sáng trong xe anh vẫn thấy được từ đôi mắt cô rằng cô đã rất mệt.
“Vậy là xong nhỉ,” Fauke nói.
“Ừ xong rồi,” Harry đáp.
“Tôi rất muốn mời anh lên nhà, nhưng…”
Harry cười. “Tôi cho rằng Oleg sẽ không thích chuyện đó đâu.”
“Oleg ngủ ngon rồi, nhưng tôi đang nghĩ đến bảo mẫu của nó cơ.”
“Bảo mẫu?”
“Bảo mẫu của Oleg là con gái của một người nào đó ở POT. Xin đừng hiểu nhầm tôi, nhưng tôi không muốn có bất kỳ đồn đại nào ở cơ quan.”
Harry nhìn chằm chằm vào các thứ trên bảng đồng hồ. Lớp kính trên công tơ mét đã rạn vỡ, anh nghĩ rằng cầu chì cho đèn báo mức dầu đã hỏng.
“Oleg là con trai cô?”
“Đúng. Anh nghĩ gì vậy?”
“À, hình như tôi đã tưởng cô nói về người yêu.”
“Người yêu nào?”
Bộ sạc điện 12V trên xe chắc là bị vứt đi hoặc bị chôm mất cùng bộ radio rồi.
“Tôi sinh Oleg khi tôi còn ở Moscow,” cô nói. “Bố nó và tôi đã chung sống với nhau được hai năm.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
Cô nhún vai.
“Chẳng có chuyện gì cả. Chỉ là chúng tôi không yêu nhau nữa. Rồi tôi quay về Oslo.”
“Vậy cô là…”
“Một người mẹ đơn thân. Còn anh thì sao?”
“Độc thân. Chỉ độc thân thôi.”
“Trước khi anh bắt đầu làm với chúng tôi, có người đã nói điều gì đó về anh và cô bé chung văn phòng với anh ở Đội Hình sự.”
“Ellen à? Không. Chúng tôi chỉ là hợp nhau thôi. Hợp nhau. Cô ấy thi thoảng vẫn còn giúp tôi.”
“Trong việc gì?”
“Vụ án tôi đang theo.”
“Ờ tôi hiểu rồi, vụ án.”
Cô lại nhìn đồng hồ đeo tay. “Tôi giúp cô mở cửa nhé?” Harry hỏi.
Cô mỉm cười, lắc đầu và đưa vai xô mạnh. Cánh cửa kêu rít nơi mấy bản lề khi bật tung ra.
Những con dốc Holmenkollen rất yên tĩnh, ngoại trừ tiếng xào xạc dịu dàng của những cây linh sam. Cô đặt một chân lên lớp tuyết bên ngoài.
“Chúc ngủ ngon, Harry.”
“Một câu nữa thôi.”
“Vâng?”
“Khi tôi đến đây lần trước, tại sao cô không hỏi tôi muốn biết điều gì ở cha cô?”
“Thói quen nghề nghiệp thôi. Tôi không hỏi về những vụ án tôi không tham gia.”
“Mà cô cũng không tò mò ư?”
“Tôi luôn luôn tò mò. Chỉ là tôi không hỏi. Về chuyện gì thế?”
“Tôi đang tìm kiếm một cựu chiến binh mà có thể cha cô biết tại Mặt trận phía Đông. Người đàn ông đặc biệt này đã mua một khẩu súng trường Marklin. À này, cha cô chẳng có vẻ gì cay đắng cả khi tôi nói chuyện với ông ấy.”
“Dự án viết sách dường như khiến ông ấy thích thú. Đến chính tôi cũng ngạc nhiên.”
“Có lẽ một ngày nào đó hai người sẽ lại gần gũi nhau.”
“Có lẽ,” cô đáp.
Bốn mắt họ giao nhau, gần như níu giữ lấy nhau và không buông ra được. “Bây giờ chúng ta đang tán tỉnh à?” cô hỏi. “Khả năng cao là không phải đâu.”
Anh vẫn thấy đôi mắt tươi cười của cô thật lâu sau khi đỗ xe trái phép tại Bislett, đuổi con quỷ xuống gầm giường lại, ngủ thiếp đi mà không nhận thấy ánh đèn đỏ nhỏ nhấp nháy trên máy trả lời tự động.
• • •
Sverre Olsen khẽ đóng cửa lại sau lưng, cởi giày và rón rén lên cầu thang. Hắn bỏ cách cái bậc mà hắn biết sẽ tạo nên tiếng cót két, nhưng hắn cũng hiểu làm thế cũng chỉ phí công.
“Sverre?”
Tiếng quát vọng đến từ cánh cửa vào phòng ngủ để mở. “Gì thế mẹ?”
“Mày đã đi đâu thế?”
“Ra ngoài thôi mà mẹ. Giờ con đi ngủ đây.”
Hắn bịt chặt hai tai để khỏi nghe những lời nói của bà; không ít thì nhiều hắn biết bà sẽ nói gì. Chúng rơi xuống như một trận mưa bùn tuyết rồi tan biến ngay khi chạm đất. Rồi hắn đóng cửa phòng lại và được một mình. Hắn nằm xuống giường, nhìn chằm chằm lên trần nhà và ngẫm lại chuyện đã xảy ra. Giống như một cuốn phim. Hắn nhắm nghiền mắt, cố chặn nó lại bên ngoài, nhưng cuốn phim vẫn chạy.
Hắn không biết cô ta là ai. Theo sắp xếp, Hoàng Tử đã gặp hắn tại quảng trường Schous và chúng đã lái xe đến con phố nơi cô ta sống. Chúng đỗ sao để từ căn hộ của cô ta nhìn ra không thấy, nhưng chúng vẫn có khả năng nhìn thấy cô ta nếu cô ta rời khỏi tòa nhà. Hoàng Tử đã nói chuyện này có thể mất cả đêm, bảo hắn thư giãn đi, bật cái thứ nhạc của tên da đen chết tiệt kia lên và hạ lưng ghế xuống. Nhưng chỉ mới được nửa tiếng thì cửa trước bật mở và Hoàng Tử nói, “Cô ta đấy.”
Sverre đã phóng như bay đuổi theo cô ta, nhưng hắn không bắt kịp cho đến khi họ đi vào con phố tối và xung quanh họ có quá nhiều người. Bất chợt cô ta quay lại và nhìn thẳng vào mặt hắn. Trong một lúc hắn chắc chắn mình đã bị nghi ngờ, rằng cô ta đã thấy cái gậy bóng chày trong tay áo hắn thò ra ngoài cổ áo khoác. Hắn đã khiếp đảm tới mức không thể kiểm soát được những cơn co giật trên mặt, nhưng sau đó khi cô ta chạy ra khỏi siêu thị 7-Eleven, nỗi khiếp sợ đã biến thành cơn phẫn nộ. Hắn còn nhớ, vậy mà cũng không còn nhớ các chi tiết từ khi họ đứng dưới ánh đèn trên lối đi. Hắn biết đã xảy ra chuyện gì nhưng cứ như thể các mảnh ghép đã bị lấy đi hết, như một trò đố vui trên ti-vi, ta được cho các mảnh ghép của bức tranh và phải đoán đó là tranh gì.
Hắn lại mở mắt ra. Nhìn trừng trừng tấm thạch cao lồi lên trên trần nhà. Khi nào hắn có tiền, hắn sẽ thuê một thợ xây sửa sang lại chỗ dột mà mẹ hắn đã ca cẩm với hắn từ lâu rồi. Hắn cố suy nghĩ về chuyện sửa mái nhà, nhưng hắn biết đó là vì hắn đang cố gắng xua đi những ý nghĩ khác. Hắn biết có chuyện không ổn. Lần này thì khác rồi. Không giống với thằng mắt một mí trong quán Dennis Kebab. Cô gái này là phụ nữ Na Uy bình thường. Mái tóc ngắn màu nâu, đôi mắt xanh. Cô ta cũng có thể như em gái hắn. Hắn cố gắng nhủ đi nhủ lại với mình điều Hoàng Tử đã khắc sâu vào đầu hắn: hắn là một quân nhân, đó là vì Sự nghiệp.
Hắn nhìn bức ảnh hắn đã ghim lên tường dưới ngọn cờ trên có dấu thập ngoặc. Tấm ảnh của Chỉ huy trưởng Lực lượng SS kiêm Giám đốc Cảnh sát Đức Hienrich Himmler đang nói chuyện trên bục khi ông ta đến Oslo vào năm 1941. Ông ta đang nói chuyện với những người tình nguyện Na Uy tuyên thệ cho Lực lượng Vũ trang ss. Bộ quân phục màu xanh lá. Hai chữ SS in trên cổ áo. Vidkun Quisling đứng ở hậu trường. Himmler. Một cái chết xứng đáng, ngày 23 tháng Năm năm 1945. Tự sát.
“Chó chết!”
Sverre đặt chân xuống sàn nhà, đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại không ngừng.
Hắn dừng lại trước một tấm gương cạnh cửa ra vào. Ôm đầu. Rồi hắn lục soát các túi áo khoác. Mẹ kiếp, xảy ra chuyện gì với cái mũ lính rồi? Trong một lúc, cơn hoảng hốt xâm chiếm hắn khi tự hỏi có phải hắn đã bỏ quên nó cạnh cô ta trong tuyết không, nhưng rồi hắn nhớ lại mình đã đội nó khi quay lại xe của Hoàng Tử. Hắn thở phù.
Hắn đã vứt bỏ cây gậy đánh bóng chày như Hoàng Tử đã dặn. Lau sạch sẽ các dấu vân tay và ném nó xuống sông Akerselva. Bây giờ chỉ là vấn đề náu mình và đợi xem chuyện gì sẽ diễn ra. Hoàng Tử đã nói hắn sẽ giải quyết mọi thứ, như hắn ta đã làm trước kia. Sverre không biết Hoàng Tử làm việc ở đâu, nhưng rõ ràng hắn ta có các mối liên hệ tốt với cảnh sát. Hắn cởi quần áo trước gương. Những hình xăm của hắn có màu xám dưới ánh trăng khi trăng chiếu xuyên qua các bức rèm. Hắn sờ huân chương chữ thập sắt đeo quanh cổ.
“Con điếm,” hắn lẩm bẩm. “Con điếm chó chết!”
Khi cuối cùng hắn cũng ngủ thiếp đi, ở phía Đông mây đã bắt đầu kéo về.