Trung tâm thể hình Focus, Ila.
Ngày 2 tháng Ba năm 2000.
Harry vừa đạp xe vừa đổ mồ hôi. Phòng khám tim mạch được trang bị mười tám xe đạp thể dục cơ công kế siêu hiện đại, tất cả đang được các cư dân “thành thị,” hay nói chung là những người hấp dẫn sử dụng, mắt họ dán chặt vào màn hình ti-vi tắt tiếng treo trên trần nhà. Harry đang xem Elisa trên chương trình Cuộc thám hiểm Robinson mấp máy môi nói rằng cô ta không chịu nổi Poppe. Harry biết. Đó là chương trình phát lại.
Ca khúc That don’t impress me much! chợt vang lên từ những cái loa.
Không, ngạc nhiên đấy chứ, Harry nghĩ, người vốn thích những bản nhạc ầm ĩ cũng như mấy tiếng khò khè nghe được từ đâu đó trong phổi mình. Anh có thể tập luyện miễn phí tại phòng tập thể hình ở Sở Cảnh sát, nhưng Ellen đã thuyết phục anh đi tập ở trung tâm Focus. Anh làm theo, nhưng vạch rõ giới hạn khi cô cố xúi anh đăng ký vào một lớp aerobics. Chuyển động hòa nhịp với nhạc phát đĩa cùng một đám người thích nghe nhạc phát đĩa trong khi người hướng dẫn có nụ cười nhếch mép luôn mồm thúc giục họ nỗ lực hơn nữa, gắng sức hơn nữa, kèm câu đùa hóm hỉnh “có công mài sắt, có ngày nên kim.” Đối với Harry đó là một kiểu tình nguyện tự hạ mình không thể hiểu nổi. Theo anh nhìn nhận, lợi thế lớn nhất của Focus đó là anh có thể vừa tập vừa xem Cuộc thám hiểm Robinson mà không phải chung phòng tập với Tom Waaler, hắn luôn thích dành toàn bộ thời gian rảnh trong phòng tập gym của cảnh sát. Harry liếc nhanh xung quanh và khẳng định, như thường lệ, tối nay anh là người già nhất ở đó. Hầu hết người tập trong phòng là con gái, tai nghe nhạc trên máy Walkman, chốc chốc lại liếc mắt về phía anh. Không phải họ đang nhìn anh mà là nhìn tay diễn viên tấu hài nổi tiếng nhất Na Uy ngồi kế bên anh, mặc chiếc áo có mũ trùm đầu xám, dưới chùm tóc tinh nghịch trên trán chẳng đọng giọt mồ hôi nào. Một tin nhắn xuất hiện trên bảng đồng hồ đo tốc độ của Harry: Bạn đang tập luyện rất tốt.
Nhưng ăn mặc thì dở tệ, Harry nghĩ, nhìn xuống chiếc quần dài chạy bộ bạc màu, èo uột mà anh luôn phải kéo xếch lên vì chiếc điện thoại di động mắc tòng teng ở eo lưng. Đôi giày thể thao Adidas nhàm chán của anh không đủ mới để gọi là hiện đại, cũng không đủ cũ để theo đúng xu hướng thời trang retro nữa. Chiếc áo thun Joy Division vốn từng được tín nhiệm giờ đang phát đi thông điệp rằng anh không còn theo kịp những gì đang diễn ra trên sân khấu âm nhạc đến mấy năm. Nhưng Harry không cảm thấy hoàn toàn - hoàn toàn - cô độc, cho đến khi di động của anh bắt đầu bíp bíp anh mới để ý thấy cặp mắt oán trách mười bảy tuổi đó, kể cả ánh mắt của tay diễn viên tấu hài kia, nhắm thẳng vào mình. Anh bèn tháo móc cục gạch quỷ quái đen đủi bé xíu ấy ra khỏi thắt lưng.
“Hole nghe.”
Ca khúc That don’t impress me much! lại vang lên.
“Juul đây mà. Tôi có quấy rầy anh không?”
“Không, là do nhạc thôi.”
“Cậu đang thở khò khè như con hà mã ấy. Gọi lại cho tôi vào lúc nào thuận tiện nhé.”
“Bây giờ tiện mà. Tôi đang ở phòng tập gym.”
“Được rồi. Tôi có tin tốt đây. Tôi đã xem báo cáo từ Johannesburg của cậu rồi. Tại sao cậu lại không nói hắn đã từng đến Sennheim?”
“Uriah ấy à? Có quan trọng không? Tôi cũng không chắc mình nghe đúng cái tên? Tôi đã tìm nó trên bản đồ nước Đức nhưng không tìm ra một Sennheim nào hết.”
“Câu trả lời cho câu hỏi của cậu là có đấy, nó quan trọng. Nếu cậu có tí nghi ngờ nào liên quan đến việc liệu hắn có chiến đấu trên mặt trận không, bây giờ cậu có thể an tâm rồi. Chắc chắn một trăm phần trăm. Sennheim nhỏ thôi và những người Na Uy duy nhất mà tôi nghe nói từng đến đó đều đi trong thời chiến. Để đến trại huấn luyện trước khi ra Mặt trận phía Đông. Lý do cậu không tìm ra được Sennheim trên bản đồ nước Đức là vì nó không nằm ở Đức, mà nằm trong vùng Alsace thuộc Pháp.”
“Vâng, nhưng…”
“Trong suốt lịch sử của nó, Alsace luân phiên nhau khi thì thuộc Pháp khi thì về Đức, đó là lý do tại sao ở đó người ta nói tiếng Đức. Việc người của chúng ta đã đến Sennheim làm giảm đáng kể số lượng ứng cử viên tiềm năng đấy. Cậu thấy đấy, chỉ những người từ các trung đoàn Nordland và Norge mới được huấn luyện tại đó. Thậm chí còn tốt hơn thế - tôi có thể cho cậu tên một người dã từng ở Sennhe im, và gần như chắc chắn sẽ sẵn lòng giúp cậu.”
“Thật không?”
“Mội người lính từ trung đoàn Nordland đã chiến đấu ngoài mặt trận. Anh ta tình nguyện gia nhập phong trào Kháng chiến của chúng tôi năm 1944.”
“Tuyệt quá.”
“Anh ta lớn lên ở một trang trại hẻo lánh cùng bố mẹ và các anh trai, bọn họ đều là những người theo chủ nghĩa Phát xít cuồng tín, anh ta bị buộc phải tòng quân và phục vụ ngoài mặt trận. Bản thân anh ta chưa bao giờ là người tin vào Phát xít, và năm 1943 anh ta đã đào ngũ gần Leningrad. Anh ta bị quân Nga bắt một thời gian ngắn, và chiến đấu bên phe người Nga trước khi xoay xở về lại được Na Uy qua đường Thụy Điển.”
“Ông có tin tưởng một người lính từ Mặt trận phía Đông không?”
Juul phá lên cười. “Tuyệt đối luôn!”
“Sao ông lại cười vậy?”
“Chuyện dài lắm.”
“Tôi có nhiều thời gian mà.”
“Chúng tôi đã ra lệnh cho anh ta trừ khử một thành viên trong gia đình.”
Harry ngừng đạp. Juul hắng giọng.
“Khi chúng tôi tìm thấy anh ta ở Nordmarka, ngay phía Bắc Ullev a lseter, ban đầu chúng tôi không tin câu chuyện của anh ta. Chúng tôi nghĩ rằng anh ta là một kẻ thâm nhập và đã nhất trí bắn chết anh ta. Chúng tôi có những đầu mối liên lạc trong bộ phận hồ sơ lưu trữ của cảnh sát Oslo, có nghĩa là chúng tôi có thể kiểm tra câu chuyện của anh ta, và hóa ra thực tế là anh ta được báo cáo mất tích trên mặt trận. Anh ta được cho là đã đào ngũ. Lý lịch gia đình anh ta được kiểm tra. Anh ta có mang theo giấy tờ chứng minh rằng anh ta là người như anh ta đã nóỉ. Tất nhiên tất cả những điều này có thể được người Đức dựng lên, nên chúng tôi quyết định phải thử thách anh ta.”
Tạm dừng.
“Và?”
“Chúng tôi giấu anh ta trong một cái lán, tránh xa cả chúng tôi lẫn quân Đức. Ai đó đề nghị rằng chúng tôi nên ra lệnh cho anh ta giết chết một anh trai của mình trong đảng Dân tộc Thống nhất. Ý chính là để xem anh ta phản ứng thế nào. Khi chúng tôi ban lệnh cho anh ta, không thấy anh ta nói gì, nhưng ngày hôm sau khi chúng tôi đi xuống lán của anh ta thì thấy anh ta đã biến mất. Chúng tôi chắc chắn rằng anh ta đã trốn, nhưng hai ngày sau anh ta lại xuất hiện. Anh ta nói rằng anh ta đã đến trang trại gia đình mình ở Gudbrandsdalen. Một vài ngày sau chúng tôi nhận được các báo cáo từ người dân của chúng tôi trên đó. Người ta phát hiện một người anh trai trong chuồng bò, một người nữa trong kho thóc. Bố mẹ anh ta nằm trên sàn phòng khách.”
“Lạy Chúa tôi,” Harry nói. “Tên này chắc mất trí rồi.”
“Có lẽ. Tất cả chúng tôi đều thế. Chiến tranh mà. Vả lại chúng tôi không bao giờ nhắc đến chuyện này, kể cả hồi đó và đến tận bây giờ cũng không. Vậy cậu cũng không nên…”
“Dĩ nhiên là không. Ông ta sống ở đâu ạ?”
“Ở Oslo này. Tôi nghĩ là ở Holmenkollen.”
“Tên ông ta là gì?”
“Fauke. Sindre Fauke.”
“Tuyệt quá. Tôi sẽ liên hệ với ông ta. Cảm ơn nhiều, ông Juul.”
Trên màn hình ti-vi có cảnh quay cận ảnh Poppe đang gửi lời chào đón trở về đẫm nước mắt. Harry gài chặt chiếc di động vào đai lưng chiếc quần dài thể thao, kéo quần lên rồi sải bước ra ngoài đến phòng cân nặng.
Shania Twain vẫn chưa thấy ấn tượng.