Tuổi Thơ Dữ Dội

Chương 29: Phần thứ tám



3

Trung đoàn trưởng đi về phía đài quan sát cây quao ở lưng chừng dốc núi Xê-ca Bảy. Chính cây quao mà Mừng đã chỉ vào bản đồ của ông, và đề nghị đặtđài quan sát ở đây. Bộ quần áo kaki màu xanh lá cây và cái mũ cối củaông cũng lấm láp bùn đất không khác gì các chiến sĩ của ông đang bố trídọc các chiến hào. Theo sau ông là em Nghi liên lạc trung đoàn bộ, mặcquần dài xắn quá gối, đầu trần, tóc đỏ quạch đất bụi, ấo sơ mi rách tảtơi. Vai em khoác khẩu các-bin.

Dọc lối đi, cây cối bị bom, đạn đạibác, đạn súng cầu vồng phạt đổ ngả nghiêng. Hố đạn bom như những vết mụn lở loét lỗ chỗ khắp sườn núi. Tiếng đạn rít xèo xèo ngang qua đầu haianh em. Chốc chốc Trung đoàn trưởng và Nghi lại nằm rạp xuống sau cácgốc cây lớn tránh đạn. Dứt đợt nổ, hai người lại đứng dậy, phủi đất bùn, lá cây, vỏ cây mà đạn ném phủ!ên người và tiếp tục đi.

Đài quan sátcây quao do các em Hoà-đen, Hiền, Châu-sém và Ba phụ trách. Châu-sém làm tổ trưởng. Đây là đài quan sát độc nhất trong năm đài quan sát củachiến khu, được trang bị máy điện thoại. Điện thoại nối liền đài quansát với hầm chỉ huy của Trung đoàn trưởng, đặt cách đó gần một cây số.

Trung đoàn trưởng đến nơi đúng vào phiên trực của Hoà-đen. Em ngồi trên chạcba ngọn cây, tay cầm ống nhòm chăm chú theo dõi bọn giặc đang lúc nhúcđi trên vùng đất Tiền chiến khu. Bên em là máy điện thoại và hộp đựngpin máy, được buộc chắc chắn vào một cành cây, ngang tầm tay với của em.

Châu, Hiền và Ba ngồi dưới gốc cây, trước mắt là mấy hốcá nhân mới đào, đất rừng đắp quanh miệng hố còn tươi nguyên.

Cách gốc cây chừng dăm chục thước, có ba, bốn hố đại bác sâu hoắm, có một hố sâu lút đầu người - chắc là do một trái pháo hạng nặng đào khoét.

Châu-sém nhìn mấy hố đạn với cặp mắt tiếc rẻ:

- Cơi chi tụi hắn bắn xích gần vô đây chút nữa thì tụi mình đỡ mệt, khỏi phải đào công sự. Đồ bắn dở ẹc!

Ba em đang ngồi ăn sắn luộc. Các em nhai một cách uể oải, mặc dầu bụng đói cồn cào. Đã ba ngày nay cả chiến khu phải ăn sắn trừ cơm, mà sắn lạithiếu muối. Các em thay muối bằng ớt, thứ ớt rừng bằng hạt thóc mà cayxé lưỡi. Hiền vừa ăn vừa nghêu ngao hát: “Sống ăn sắn mà không thèm ănphơ ở ở… Chết huy hoàng mà không khuất phục ai!”

Thấy trung đoàn trưởng đi đến, các em đứng dậy:

- Anh ạ! Anh ạ! Mời các anh ăn sắn cho vui!

Trung đoàn trưởng cười, hỏi:

- Nuốt ngó bộ gay go hí? - Ông rút trong túi quần ra một khúc sắn dài cỡgang tay - Anh cũng được mấy o cấp dưỡng phát cho hai khúc như ri. Từsáng tới giờ anh cũng gắng gỏi lắm mới nuốt hết một khúc. Các em chịukhó, trong vài ngày tới răng cũng có gạo dưới đồng bằng tiếp lên.

Ba nói:

- Dạ ăn sắn cả tuần em cũng ăn được, chỉ khiếp là không có muối.

- Dạ, không biết nhịn muối độ mười ngày, có chết không anh hè? - Hiền hỏi.

- Hồi anh chiến đấu ở mặt trận An Khê, nghe mấy cụ già người Thượng từngtham gia nghĩa quân Ma Trang Lơn, kể là họ đã từng phải nhịn muối cả năm liền.

Châu-sém nói:

- Rứa thì Vệ Quốc Đoàn mình so với các cụ, khổ đã thấm béo chi anh hè?

- Ừ đã thấm béo chi! Tình hình địch có chi mới không? Anh Thắng đi mô rồi?

- Dạ anh vừa ở đây xong. Anh xuống đôn đốc mấy đài quan sát ở phía Nam, chắc đến trưa mới quay về.

Châu-sém báo cáo:

- Dạ, cả ngày hôm qua với sáng ni tụi hắn rậm rịch đào công sự dọc bờ sông. - E tụi hắn định ở lại chơi với ta lâu dài anh hè?

Trung đoàn trưởng chỉ cái thang tre cao vòi vọi bắt dựa vào thân cây để trèo lên đài quan sát, hỏi:

- Có chắc không các em? Anh muốn trèo lên ngó qua một chút.

- Dạ, cũng hơi chắc… Anh trèo không quen sợ bổ. - Châu-sém nhìn cái thang rồi nhìn Trung đoàn trưởng với ánh mắt lo lắng. - Mà tụi hắn hay bắnbất tử vô đây lắm… lỡ…

Ba nói:

- Bốn giờ chiều hôm qua hai thằng Xít-pi-phai bay qua đây, là là gần sát ngọn cây. Em tưởng tụi hắn cào em đi mất.

Trung đoàn trưởng cười:

- Ý là các chú không muốn cho anh trèo chớ chi? Hồi nhỏ anh cũng là tay trèo cây chúa lắm chứ các chú đừng tưởng.

Trung đoàn trưởng vịn thang tre trèo lên thoăn thoắt. Hoà-đen cúi lom khom,một tay vòng ôm chặt cành cây, một tay níu khuỷu tay Trung đoàn trưởng,giúp ông trèo lên chỗ em đang ngồi. Em nép sát vào cành cây nhường chỗvà trao ống nhòm cho ông.

Đại bác giặc lại dồn dập bắn vào núi. Nhiều trái rít ngang qua ngọn cây. Mỗi lần như vậy Hoà-đen đều rùng mình, cảngười em căng như sợ dây đàn lên hết mức, trong tư thế sẵn sàng lấy thân mình che đạn cho người chỉ huy cao nhất của trung đoàn. Trung đoàntrưởng vẫn điềm tĩnh lia ống nhòm quan sát địa hình và bọn giặc đang đào công sự dọc bờ sông Ô Lâu. Mỗi lần có tiếng đại bác rít bay qua, ôngcũng chẳng buồn cúi đầu.

Đêm qua có cuộc họp giữa Ban chỉ huy trungđoàn các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, tại Xê-ca Bốn để quyết định nhữngvấn đề cấp thiết của chiến khu Hoà Mỹ lúc này. Cuộc tấn công bao vâychiến khu của giặc đã bước sang ngày thứ mười hai. Trong mười hai ngàyqua, cường độ các đợt tấn công của giặc vào núi càng dữ dội. Tất cả cácđợt tấn công đều bị quân ta đánh bật ra. Quân ta vũ khí ít, quân sốkhông đông, nhưng được rừng cây che phủ, và bọn giặc lại không thôngthuộc địa hình, nên Ban chỉ huy trung đoàn tin chắc dù chúng tấn côngvới lực lượng gấp đôi cũng không thể vào được trong núi. Nhưng gay gonhất vẫn là lương thực. Ba ngày qua cả chiến khu đều ăn sắn. Những longạo cuối cùng được vét dồn cho bệnh viện với mấy chục thương binh.

Tỉnh uỷ và Uỷ ban tỉnh đã liên tiếp cử nhiều đoàn cán bộ, đêm bí mật bò quaphòng tuyến địch, vượt sông Ô Lâu, về đồng bằng hai huyện Phong, Quảnghuy động lương thực tiếp tế cho chiến khu đang bị bao vây. Nhưng bọngiặc bao vây chiến khu rất chặt. Không tấn công được vào núi, chúng xoay đổi chiến thuật, vây hãm chiến khu dài ngày, cắt đứt mọi đường tiếp tếtừ đồng bằng lên. Chiến khu sẽ kiệt lương thực. Việt minh tất phải rahàng, nếu không hàng thì chết đói.

Trong mười hai ngày qua, hàng chục đoàn dân công tiếp tế của các xã đồng bằng, gánh gạo, muối lên chiếnkhu, đã bị bọn địch phục kích tiêu diệt. Gạo, muối lẫn với máu và xácngười nằm lăn lóc trên đường từ đồng bằng lên núi. Nhưng nhân dân cáchuyện đồng bằng vẫn gan góc, quyết liều thân với giặc để cứu chiến khu.Đoàn tiếp tế này vừa ngã xuống, xác vừa được mang về chưa kịp chôn cất,đoàn tiếp tế khác đã hăm hở lên đướng. Nhiều đoàn đã phải đi một quãngđường dài gấp năm, gấp bảy đường chính, với hy vọng lọt được qua vòngvây giặc. Họ băng qua Quảng Trị, vòng lên núi xanh, rồi từ núi xanh quặt trở lại Hoà Mỹ.

Cuộc họp của Ban lãnh đạo chiến khu Hoà Mỹ đã đi đến quyết định: Rời bỏ chiến khu Hoà Mỹ. Dời toàn bộ chiến khu vào DươngHoà, một vùng làng mạc nằm ven thượng nguồn sông Hương - phía nam tỉnh.Từ Hoà Mỹ vào Dương Hoà phải đi xuyên núi mất từ ba đến năm ngày.

Các bộ phận cồng kềnh như bệnh viện, kho tàng công binh xưởng… phải đi ít nhất là mười ngày.

Ngay đêm đó, một đoàn tiền trạm đã lên đường vào chiến khu mới.

Tin của các chiến sĩ trinh sát từ Tiền chiến khu đưa về là bọn giặc đangsửa soạn một trận tấn công quyết định vào các Xê-ca. Báo chí, đài phátthanh giặc đưa tin quân Việt minh bắt đầu chết đói, một số không cầm nổi vũ khí, đang hẩp hối. Chúng tin chắc với trận tấn công quyết định này,chúng sẽ nghiền nát toàn bộ chiến khu. Trinh sát dự đoán mũi tấn côngchính của bọn. giặc là hướng Xê-ca Bảy, nơi đóng bệnh viện.

Ban chỉhuy trung đoàn quyết định tổ chức một trận phục kích bằng địa lôi lớnnhất, dữ dội nhất từ trước đến nay, với toàn bộ số mìn hiện có của chiến khu, tại bãi trống trên đường vào Xê-ca Bảy. Bãi trống này ôm vòng chân núỉ có dựng đài quan sát cây Quao.

Trung đoàn trưởng đến đài quan sát để nghiên cứu lại địa hình lần cuối cùng, chuẩn bị cho trận địa lôi chiến quyết định.

4

Đợt đại bác câu sâu vào trong các lớp núi xanh vừa đứt, gần một chục độiviên Thiếu niên trinh sát nằm nép mình bên bờ suối tránh đạn, đã vùngngay dậy. Các em phủi tóc tai, áo quần, và sờ quanh người xem có mảnhđạn nào găm vào người.

Trên triền dốc bên kia suối, một đoàn ngườikhiêng vác cồng kềnh, tay chống gậy, những ngón chân trần bấm sâu xuốngđất, nặng nhọc bước đi.

Những bộ phận máy móc tháo rời, những bánh xe răng cưa, những cái đe, búa tạ, đạn lép, mìn, những thùng đồ đạc… lúclắc trên đòn khiêng, nghiến miết vai họ, làm chân người nào cũng bước đi chệnh choạng.

Cuộc rút lui khỏi chiến khu bắt đầu từ tờ mờ sáng, khi đường rừng còn chưa nhìn rõ, đẫm ướt sương đêm. Tư-dát thích dùng chữnghĩa sang trọng, gọi cuộc rút lui này là “Thiên đô về phía Nam“.

Những cơ quan, những đơn vị cồng kềnh được rút lui trước.

Họ im lặng một cách kỳ cục. Tiếng đạn đại bác xèo xèo rít qua đầu, họ cũng chẳng thèm núp cũng chẳng buồn cất tiếng chửi rủa như mọi khi. Một vàingười quạu cọ, làu bàu: “Điếc đít“.

Họ lầm lũi, nặng nhọc tiến mãi vào rừng sâu…

Một nừa quân số đội Thiếu niên trinh sát gồm các em: Du, Đồng, Kỳ, Bé,Nuôi, Phát, Do, Tuyên, Bồng-da-rắn, được lệnh đi theo đoàn cán bộ thammưu vào chiến khu mới để làm quen trước với địa hình, chuẩn bị cho những trận chiến đầu mới.

Tư-dát, Nguyện, Trà, Lô ở hai đài quan sát cạnhđường rút lui. Các em thay mặt nửa đội còn ở lại, sẽ rút lui sau cùng,đến gặp gỡ, chia tay với các bạn rút trước.

Các em chuẩn bị một bữatiệc liên hoan chia tay khá thịnh soạn. Hơn một chục vắt cơm nhỏ xíu,mỗi vắt nửa lon gạo, đặt trên hai tàu lá chuối rừng, trên tảng đá phẳngphiu như một bàn nằm trên bờ suối.

Gọi một bữa liên hoan chỉ có chụcvắt cơm nhỏ xíu là thịnh soạn, người kể chuyện không hề có tí hài hước.Nếu biết được cái giá của mỗi vắt cơm đó, người ta sẽ phải nhận rằng,trên thế gian này không có thứ cao lương mỹ vị nào đắt hơn. Giá của mỗivắt cơm là giá máu. Đảng bộ và chính quyền hai huyện Phong, Quảng đãphải tổ chức những đoàn “Vũ trang tiếp tế” để đưa bằng được gạo, muốilên chiến khu… Mỗi đoàn dân công gánh gạo, muối có một tiểu đội du kíchvũ trang đầy đủ, đi mở đường và hộ tống. Họ phải đánh nhau với bọn giặcphục kích trên các nẻo đường để chọc thủng vòng vây giặc.

Nhiều tiểuđội lên đến chiến khu đã hy sinh chỉ còn ba, bốn người. Nửa đêm hôm kia, một đoàn dân công huyện Quảng Điền chuyển được mấy tạ gạo lên đến chiến khu, phải mất sáu người chết và bốn người bị thương nặng. Trong sốnhững người bị thương có một chị tổ trưởng dân công nghe đâu người làngThệ Chí, bị đạn và mảnh lựu đạn xuyên qua đùi, bụng. Nhưng chị khôngchịu rời gùi gạo nặng trĩu trên vai và đồng thời chị chỉ huy tổ mìnhmang gạo lọt qua vòng vây giặc. Hiện tại đang nằm tại bệnh viện Xê-caBảy, trong tình trạng hết sức nguy kịch. Các chiến sĩ, cán bộ trên đường rút lui đều tạt vào bệnh viện thăm chị. Hôm qua Tư-dát ghé vào thăm,nhìn chị nằm thiêm thiếp hôn mê và tấm chăn đơn chị đắp ngang người đầmđìa máu, em mếu máo khóc và một ý vụt đến trong đầu: “Ôi những hạt cơmem ăn, nặng trĩu máu nhân dân!“. Gương dũng cảm tiếp tế cứu chiến khucủa chị chỉ hôm sau đã lan truyền khắp chiến khu.

- Thôi ăn đi, rồiđi vô thấu trong đó cho được mạnh giỏi anh em hí. - Lô khai mạc bữa tiệc liên hoan vẻn vẹn một câu ngắn ngủi như vậy.

- Khoan! Khoan! - Tư-dát vừa kêu vừa trịnh trọng mở gói lá chuối từ nãy tới giờ vẫn cầm lăm lăm trong tay.

- Úi chao! Muối! Muối! Hoan hô Tư-dát! Hoan hô Tư-dát!

Các em vỗ tay hoan hô, reo hò vang dội dốc núi.

Tư-dát trang trọng đặt gói muối giữa những vắt cơm. Cả chục cặp mắt như bị hút chặt vào đó. Một đốm nắng rực rỡ lọt qua tán cây, rọi thẳng vào giữagói muối. Những hạt muối bắt nắng, sáng lên lấp lánh như đang cười, nháy mắt với các em.

Tất cả đều nuốt nước bọt.

- Nằm xuống! - Võ Trà bỗng hét to thất thanh.

Chưa hiểu chuyện gì nhưng tất cả đều nằm rạp xuống đất.

Trên đầu các em rợn lên tiếng xèo xèo như sắt đỏ nhúng vào nước lạnh. Mộttiếng nổ chói tai. Đất đá quăng rào rào lên mình bọn trẻ. Trái đạn đạibác nổ cách các em chưa đầy ba chục thước.

Tất cả đứng bật ngay dậy,không kịp phủi tóc tai, mặt mũi, đã ngó ngay vào mâm tiệc liên hoan.Những vắt cơm còn nguyên, nhưng gói muối bay đâu mất? Các em tái mặt,nháo nhác ngó quanh tìm kiếm. Đoàn phát hiện ra gói muốn nằm lọt giữakhe hở hai tảng đá. Hơi đạn nổ đã hất gói muối xuống đó. Nhìn xuống khehở, các em thấy ngọn lá nằm nghiêng trút hết muối xuống đáy khe hở. Khehở vừa hẹp lại vừa sâu.

- Để tớ! Để tớ! - Các em tranh nhau nằm ẹpxuống, thọc tay vào khe hở để nhặt muối. Nhưng vô ích. Em nào thọc đượcsâu nhất cũng chỉ đến khuỷu tay. Đồng cố thọc khuỷu tay bị kẹt, khôngrút ra được. Các em phải xúm lại giúp Đồng rút ra.

Đồng kêu oai oái, nước mắt, nước mũi giàn giụa vì đau. Rút ra được khuỷu tay em bị xây xát, rướm máu.

Tất cả mặt ỉu xìu, tiếc xót, mắt không rời khe đá bên dưới có chứa cả kho châu ngọc.

- Có lẽ mô ta lại chịu thua? - Lô dõng dạc lên tiếng - Cạy đá ra mà lượm!

Thế là tất cả xúm lại hì hục đào, khoét đất dưới chân tảng đá, làm cho tảng đá hỏng chân để cạy.

Ba, bốn em nhảy xuống suối, bụm tay tát nước suối vào chân tảng đá cho đấtmềm ra, dễ đào. Mấy em dùng dao găm, cành cây đào, mấy em khác dùng taybới đất.

Tất cả mồ hôi vã ra như tắm. Những manh áo rách như xơ mướpdán vào những tấm lưng gầy nhom. Tảng đá không chịu nhúc nhích mặc chocác em hò hét xô đẩy. Võ Trà nổi cáu, đạp vào tảng đá chửi um:

- Tổ cha mi, mi định ăn tươi, nuốt sống gói muối của tụi tau à?

Tất cả đứng lên, quệt mồ hôi trán, nhăn nhó thiểu não:

- Có lẽ chịu bỏ thôi! Ăn được hột muối mà xâm xoàng mặt mũi ri thì nhịn quách cho rồi?

Tư-dát tác giả gói muối, vẫn hậm hực:

- Chịu đầu hàng à? Đầu hàng một lần rồi sẽ quen mùi đầu hàng mãi!

Sáng kiến chợt lóe trong óc em. Em đưa mắt nhìn quanh kêu to:

- Tê rồi! - Em chỉ một cái đòn khiêng ai vứt lăn lóc bên sườn núl.

Tư-dát nhảy tới chụp cái đòn tre nặng chịch, vác chạy đến, miệng liến láu mộtcâu danh ngôn: “Hãy cho ta một điểm tựa, ta sẽ bẩy cả quả đất!“.

Tư-dát thọc một đầu cái đòn tre vào cái hố sâu vừa đào dưới chân tảng đá. Hơnchục đôi vai tí hon ghé sát vào nhau, gánh cái đòn tre: Tư-dát la to:“Hai… ba này!“. Tất cả choãi chân, rườn căng mình, gánh bật cái đòn trelên. Hòn đá rung rinh rùng mình dưới lực của đòn bẩy, cuối cùng nặng nềđổ nghiêng về một bên.

Các em xúm lại lượm từng hạt muối bỏ vào ngọn lá, mặc cho tiếng đạn đại bác gầm rú ngang đầu.

Khi đã lượm hết, Tư-dát nói:

- Rút kinh nghiệm ta chia cho chắc chuyện. Tớ đếm rồi, Chia đều mỗi đứađược bảy hạt, hạt nhỏ bù hạt to. Nào ngửa tay ra để tớ phân phối. -Tư-dát đếm cẩn thận từng hạt muối một bỏ phần muối vào lòng bàn tay củamỗi bạn:

- Phần muối của mình, Tư-dát bỏ hết vào lòng bàn tay Đồng, cười nói:

- Phần của tau, tau đền cho mi cái chỗ khuỷu tay bị tươm máu.

5

Chiến khu Hoà Mỹ bị giặc tấn công, vây hãm đã bước sang ngày thứ mười lăm. Đó là một ngày căng thẳng quyết liệt nhất.

Mới tờ mờ sáng, các đỉnh núi còn chìm khuất trong sương, bọn giặc đã bắnđại bác vào các lớp núi dồn dập gần như không phút nào nghỉ. Đất đá bayrào rào, cây cối đổ rầm rầm.

Tám giờ sáng, máy bay phóng pháo ào àokéo đến hết tốp này đến tốp khác, vòng lượn, gầm rú, trút bom đạn xuốngcác sườn núi, khe suối mà chúng nghi có quân ẩn náu. Tin tức từ các đàiquan sát dồn dập báo về hầm chỉ huy sở: Nhiều toán từ đồi Đồng Nhện, đồi Hai Lăm, vượt sông Ô Lâu sang Hoà Mỹ. Phía bắc Tiền chiến khu, giặc tập trung qưân đông đặc.

Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu ngồi trong hầm chỉ huy đào cạnh gốc một cây kiền kiền đại thụ. Máy điện thoại đặt trongcái hốc khoét sâu vào vách hầm đổ chuông liên hồi. Anh chiến sĩ thôngtin trực điện thoại chốc chốc lại đưa ống nghe cho ông: “Báo cáo? Đàiquan sát cây Quao báo cáo với anh!“.

Qua những báo cáo của cảc đơn vị Trinh sát, Trung đoàn trưởng dự đoán bọn giặc sẽ mở trận tấn công quyết định vào núi trong ngày hôm nay. Giờ tấn công muộn nhất là haỉ giờchiều. Và ông đã sẵn sàng đón tiếp chúng. Trận địa mìn được bố trí xongvào lúc một giờ sáng. Ba giờ hai mươi phút sáng, ông và một cán bộ thammưu đến kiểm tra lại bãi mìn lần cuối cùng.

Đài quan sát cây Quao làmột trong những đơn vị quyết định sự thành bại của trận địa lôi chiến.Ông ra lệnh bổ sung thêm cho tổ Trinh sát cây Quao hai chiến sĩ nổitiếng gan dạ của trung đoàn…

Theo kế hoạch của ông, khi bọn giặc vàođến địa điểm quy định, một bãi trống lớn gần dải rừng cây thưa và thấpdưới chân núi Xê-ca Bảy, Đài quan sát cây Quao sẽ gọi điện thoại về hầmchỉ huy. Ông sẽ đích thân ra lệnh nổ mìn.

Quả địa lôi phát lệnh nặngmột trăm cân, do công binh xưởng chế tạo bằng một quả bom lép của địchném xuống Xê-ca Bốn. Quả bom phát lệnh và toàn bộ bãi mìn sẽ được nổbằng pin điện. Hầm của hai chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn ở cáchhầm chỉ huy một tầm gọi.

6

Em Nghi áo đứt hết cúc mở phanh ngực,quần đùi xắn đến bẹn, đầu trần lấm lem đất bùn, tay xách khẩu các-bin,vừa đi vừa chạy về phía Xê-ca Bảy. Em nhảy như một con sơn dương non qua những thân cây đổ ngổn ngang, những hố đạn, hố bom chi chít dọc theolối đi. Thỉnh thoảng em dừng lại, co chân lên, rút một cái gai dưới bànchân, vất ra xa với vẻ mặt khinh bỉ.

Em đang có nhiệm vụ khẩn cấp:Mang thư của Trung đoàn trưởng gửi bác sĩ bệnh viện trưởng, yêu cầu chorút gấp những bộ phận cuối cùng ra khỏi Xê-ca Bảy.

Trận tấn công của giặc vào Xê-ca Bảy trong ngày hôm nay sắp bắt đầu.

Khu vực bệnh viện vắng lặng khác thường. Các lán đều trống không. Nhiều lán đổ sụp, hai mái lán nằm tùm hum trên mặt đất, cột kèo được rút hết làmđòn khiêng cáng bệnh nhân, thương binh.

Phần lớn bệnh nhân, thươngbinh, y tá, hộ lý đã rút khỏi Xê-ca Bảy, chuyển về chiến khu mới từ haihôm trước. Lúc này bệnh nhân chỉ còn lại sáu thương binh vừa được chuyển đến đêm qua và sáng nay.

Bác sĩ Thiền, một anh và một chị y tá, mộtchị hộ lý còn ở lại chăm sóc thương binh. Tất cả được chuẩn bị sẵn sàngđể di chuyển. Thương binh được đặt nằm sẵn trên cáng làm bằng đòn tre và vải bạt, chờ người đến cáng đi.

Chỉ riêng trường hợp chị tổ trưởngdân công làm bác sĩ Thiền rất đỗi lo lắng, băn khoăn. Các vết thương quá nặng, chị mất quá nhiều máu, nên không hy vọng gì có thể qua khỏi ngàyhôm nay. Nếu cáng đi, chị sẽ chết dọc đường, và có khả năng chết sớm hơn vì các vết thương đang chảy máu bị chấn động. Nhưng nếu để chị ở lạithì phải cử người ở lại săn sóc…

Lúc Nghi bước vào lán đưa thư của trung đoàn trưởng, bác sĩ Thiền vừa tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim.

Trong lúc ông đứng trước cửa lán đọc thư, Nghi đi về phía cuối lán thăm chịtổ trưởng dân công mà hai hôm nay em được nghe cả chiến khu nhắc nhở,bàn tán về tinh thần gan dạ vô song của chị, về cái gùi gạo chị mangtrên lưng găm đầy đầu đạn, gạo trộn với máu…

Chị nằm trên cáng, đắp tấm chăn đơn cũ kỹ, đầu gối cái bao tải gấp làm tám, tóc buông loà xoà phủ kín cái tải gối đầu.

Nhờ mũi thuốc trợ tim vừa chích, chị dứt cơn mê sảng, bắt đầu tỉnh lại. Chị mở to mắt nhìn quanh như chưa hiểu mình đang nằm ở đâu.

Khi còn cách chị vài bước, Nghi bỗng đứng sững lại, kinh ngạc kêu lên:

- Ui! Thím?

Nghi nhận ra, chị tổ trưởng dân công lừng danh của chiến khu, chính là mẹcủa Mừng. Em đã được gặp chị trong cái đêm chở Mừng về làng Phò thăm mẹ.

Hôm đó, tuy dưới ánh đèn dầu nhập nhoạng, và chỉ nói chuyện với chị có dămphút, nhưng gương mặt chị có vẻ gì rất khác thường, in sâu vào trí nhớcủa em. Nên thoạt nhìn em đã nhận ra ngay.

- Thím không nhận ra cháu à? - Nghi bước đến hỏỉ. - Cái đêm ở làng Phò, cháu đi ngựa đem tin thằng Mừng về cho thím…

Người đàn bà cặp mắt trân trân nhìn Nghi một lúc lâu.

Gương mặt thất thần của chị vụt sống động linh hoạt hẳn lên. Chị làm một cửđộng như muốn cất đầu dậy, nhưng không sao cất nổi. Chị bất lực, yếu ớtkhẽ kêu:

- Cháu là Nghi. Thím nhớ rồi… Rứa em Mừng ở mô, có ở trên chiến khu ni không.

- Dạ có! - Nghi không kịp nghĩ ngợi, buột miệng trả lời.

Ánh mừng rớ tràn ngập gương mặt mất máu của chị:

- Ui chao, rứa thì phúc cho thím quá! Em Mừng có ở gần đây không? Cháulàm ơn làm phước gọi Mừng lại đây cho thím chộ mặt một chút… Thím biết,thím yếu lăm rồi, thím e chẳng còn sống được bao lâu…

Nước mẳt chị bỗng bật trào ra như xuối. Nghi nhìn chị, càng bối rối, em nói tuột luôn:

- Nhưng… chừ hắn không còn là Vệ Quốc Đoàn nữa. Hắn trốn về Huế theo chahắn làm Việt gian, rồi lại mò lên chiến khu làm gián điệp cho Tây. Chừhắn đang bị giam ở trại tù chờ ngày đưa ra toà án binh xét xử.

Bác sĩ Thiền kêu to.

- Nghi! - Ông muốn bắt em ngừng lại nhưng không kịp. Ông không lường sự thể đến như thế.

Người đàn bà rùng mình. Ánh mắt chị trở nên_ ngơ ngác, thảng thốt.

- Răng? Cháu nói răng? Thằng con chị đi theo cha hắn làm Việt gian? Chừđang bị Chính phủ giam tù? Ui chao? Ui chao? Răng mà con dại rứa con ơi!

Giọng chị như trong cơn mê sảng, nghe muốn đứt ruột. Nghi biết mình đã lỡ lời, không còn cách gì chữa lại được nữa.

Em đứng ngây người nhìn chằm chặp gương mặt mẹ Mửng, vừa mới tươi rạng đó, chừ đã nhăn nhúm, tái nhợt vì đau khổ, đầm đìa nước mắt, em cũng muốnoà khóc theo luôn. Môi em run, ấp úng mãi không nói được điều gì.

Chị Niệm thò tay ra ngoài chăn, bíu chặt lấy vạt áo của Nghi, như chỉ sợ em bỏ chạy mất. Chị nói qua nước mắt:

- Cháu đừng giáu thím mà tội thím lăm cháu nờ. Em Mừng có đúng nhừ rứathì cứ nói cho thím biết… Mà chắc đúng thiệt rồi. Ui chao, hắn tưởng cha hắn là cái thằng Năm Ngựa… Thằng Năm Ngựa cô hồn chuyên giết người ởHuế… Ai còn lạ chi… mà cũng lỗi tại mạ hết, con ơi… - Chị bắt đầu nóilảm nhảm như đang rơi dần vào cơn mê sảng. Cả gương mặt chị vùi trongnước mắt…

Bác sĩ Thiền vội vã sai chị y tá tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim. Chị bất chợt như vừa bừng dậy sau cơn ác mộng. Chị nói với Bác sĩ Thiền, ánh mắt van nài cầu khẩn:

- Xin ông cho tui được gặp thằng con tui… Con tui hắn dại dột quá… ông thương tui, cho tui được chộ mặtthằng con tui trước khi tui nhắm mắt, xuôi tay…

Bác sĩ Thiền hỏi Nghi:

- Cái chú Mừng ấy chừ ở mô rồi!

- Dạ ở trại giam Xê-ca Năm. Sáng ni em cũng và chạy công văn vô đó. Trại giam cũng đang sừa soạn rút khỏi chiến khu.

- Chừ làm răng hè? - Bác sĩ Thiền bối rối tự hỏi.

Nghi như vụt tỉnh trí lại. Em hấp tấp nói:

- Chừ ri anh nì. Anh viết mấy chữ gửi anh Lanh phụ trách trại giam, xincho Mừng được đến Xê-ca Bảy gặp mạ hắn. Em cũng thân với anh Lanh lắm,em nói thêm vô, chắc rằng anh ấy cũng cho hắn đi.

Bác sĩ Thiền lấygiấy bút viết bức thư ngắn gửi trại trưởng trại giam, trao cho Nghi.Nghi gấp tư lá thư bỏ vào túi khoác khẩu các-bin lên vai, hấp tấp nói:

- Em cố chạy thật mau, may ra còn kịp.

Và em lao ra khỏi khu lán bệnh viện.

Nghi cắm đầu chạy thục mạng về phía Xê-ca Năm, miệng lẩm bẩm: “Lạy trời mayra còn kịp!“. Đại bác nổ ầm ầm quanh mình, em cũng không kịp nằm xuốngnúp. Hơn nửa giờ sau, Nghi đã bước vào cổng trại giam. Khoảng hai chụctù nhân toàn những Việt gian, gián điệp, những binh sĩ phạm pháp, tậphọp thành một hàng dài trước sân trại giam. Tất cả đều bị trói, hai taychắp trước bụng, mặt cúi gằm nhìn đất. Mấy anh lính gác trại giam tayxách súng, ba lô trên vai, chuẩn bị áp giải toán tù rời khỏi chiến khu.

Vừa thoáng nhìn, Nghi đã nhận ngay ra Mừng đứng ở quãng giữa hàng, hai taybị trói bằng dây điện thoại, chắp trước bụng. Mừng cũng nhận ra Nghi, em khẽ gọi:

- Nghi!

Nghi nghe gọi, nhưng giả bộ làm ngơ, không quay lại.

Nghi đi thẳng đến lán trưởng trại, vừa thở vừa móc túi lấy bức thư đưa cho anh.

Trưởng trại Lanh trạc bốn mươi tuổi, vóc dáng cao lớn, xương xẩu, gồ ghề. Anh đọc bức thư của bác sĩ Thiền trán cau lại, nói:

- Nhưng làm răng được chừ!

Nghi vội đứng thẳng người lên, nói không kịp thở.

- Anh gắng giúp cho thím ấy. Thím ấy bị thương nặng lắm, sắp chết rồi,thím ấy chỉ ao ước chộ mặt con trước khi nhắm mắt. Anh thương thím ấy đã liều chết cứu chiến khu, chớ hắn thì ai mà thương được?

Giọng van nài khẩn thiết của Nghi làm cho người trưởng trại giam vốn có tiếng là lòng sắt dạ lim, cũng phải động lòng.

Anh Lanh nói, mặt vẫn không thôi cau có:

- Anh chẳng tiếc chi, nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng khổ cái là chừ khôngcó người áp giải hắn. Số anh em canh trại còn ít quá chỉ đủ để áp giảicả bọn…

- Hay anh giao hắn cho em. Em sẽ áp giải hắn đến cho mạ hắn gặp, chỉ một lúc em giải hắn về trả các anh.

- Liệu em có áp giải nổi hắn không? Lỡ hắn bỏ chạy ra Hoà Mỹ với tụi giặc thì em làm răng?

- Thì khẩu các-bin đây em để làm chi? - Nghi đưa khẩu các- bin ra trướcmắt anh, bấm chốc rút băng đạn ra. - Đây anh coi, băng đạn còn đủ cảchín viên. Hắn mà chạy là em bắn ngay. Mà em bắn chẳng tồi đâu. - Nghilên đạn khẩu các-bin, chỉ một chùm trái chôm chôm rừng cao vút trên ngọn cây ở góc trái sân trại, nói.

Nghi đặt khẩu súng lên vai, ngắm và bóp cò. Chùm chôm chôm rơi bịch xuống đất, trái văng tung tóe.

- Rứa em phải bảo đảm nghe?

- Hắn mà chạy mất thì em xin thế ngay vô chỗ hắn.

Anh Trưởng trại bước ra giữa sân gọi:

- Tên Mừng đâu?

- Dạ, em đây ạ.

- Mi đi theo đồng chí này lên Xê-ca Bảy có việc gấp. Anh nhìn Mừng vớicặp mắt đe doạ, nói tiếp. - Dọc đường mà mi có ý bỏ trốn thì liệu hồn,như chùm trái chôm chôm tê - Anh chỉ chùm trái chôm chôm lăn lóc trênsân.

Chỉ sau hơn mười này sống ở trại giam mà Mừng đổi khác đến không ngờ. Gương mặt em hốc hác, ánh mắt buồn bã, đờ đẫn, cặp môi run run mím chặt. Bộ áo quần kaki ga-bạc-đin nhem nhuốc, lấm lem không còn ra màusắc gì. Cả con người em toát lên nỗi cam chịu, nhẫn nhục của người biếtrằng mình oan uống mà không còn cách gì minh oan được.

Em ngẩng nhìntrưởng trại rồi nhìn người bạn cũ, ánb mắt thảng thốt, dò hỏi. Em cúivội nhìn xuống đất. Em lặng lẽ, ủ rũ bước ra khỏi hàng. Hai cổ tay bịtrói bàn tay chắp trước bụng. Nghi nhìn người bạn cũ với cặp mắt vừa ghê tởm, vừa thương xót.

”Rốp!” Nghi lên đạn khẩu cac-bin, khoá chốt an toàn, cầm ngang khẩu súng chĩa vào sau lưng Mừng. Em ra lệnh, giọng cộc cằn:

- Đi lên Xê-ca Bảy!

Mừng cúi gằm mặt lặng lẽ bước đi, lưng hơi gù xuống, dáng đi quen. thuộc của kẻ tù tội. Nhìn một em bé với đáng đi đó, người rắn lòng nhất cũng thấy mủi lòng. Nghi vụt nhớ lại cái đêm ngồi chung với Mừng trên lưng. ngựaphi về làng Phò thăm mạ. “Bữa ni mình cũng đưa hắn đi thăm mạ mà hắn thì phải trói tay, còn mình cầm súng chĩa vô lưng hắn“. Em nghĩ vậy và nỗigiận, thương trào lên nghẹn cổ, làm em cũng trở nên lặng lẽ, lầm lì.

Đi qua khỏi dốc núi, Mừng hỏi không ngoái đầu lại.

- Cậu. Anh - (Quen miệng, Mừng buột gọi Cậu, nhưng em chợt nhớ ra mìnhbây giờ không được phép gọi người bạn cũ là cậu, nên vội chữa là Anh)dắt tui lên Xê-ca Bảy có việc chi?

- Cho mạ mi gặp mi!-

Mừng sững sờ quay lại, lắp bắp hỏi:

- Mạ tui? Mạ tui?… Anh đừng nôi dối mà tội tui. - Hai mắt Mừng tự đưng nhòe ướt.

- Thì đúng là mạ mi… Tau thèm nói láo làm chi?

- Nhưng làm răng mạ tui ở trên chiến khu được?

- Mạ mi làm tổ trưởng tổ dân quân gánh gạo tiếp tế cho chiến khu. Cơn miăn bữa ni là gạo mạ mi đưa lên đó. Tây hắn bắn mạ mi bị thương nặng lắm. Rứa mà mi theo Tây làm Việt gian.

- Ui chao, mạ ơi! Mạ! - Mừng bật kêu to rồi quay đầu vùng chạy, Nghi hớt hải lao đuổi theo.

Hai tay Mừng bị trói nên chạy được một quãng, vấp phải rễ cây nằm. gồ lên mặt đát, em mất đà ngã vập mặt xuống đất.

Mũí em trúng phải hòn đá, máu cam chảy loà lện. Em muốn đứng dậy chạy tiếp, nhưng không chống tay được để lấy dà đứng dậy. Nghi phải cúi xốc vaigỉúp Mừng đứng lên. Mừng đưa lưỡi liếm máu chảy tràn xuống môi, vừa khóc vừa nói:

- Anh cởi trói cho tui với, tui mới chạy mau được. Anh ơi, tui sợ không tới kịp…

- Nhưng lỡ mi chạy trốn thì răng?

Tui còn biết chạy trốn đi mô?

- Trốn xuống Hoà Mỹ theo Tây. Chừ Tây đang ở đầy dưới đó!

- Tui đời mô theo Tây. Anh cũng nghi tui là Việt gian thiệt?

- Cả chiến khu ni ai chẳng biết mi là Việt gian.

- Ui chao, răng mà tui khổ ri trời ơi? - Mừng kêu to, loạng choạng ngồisụp xuống đất như bị ai phang một gậy trúng giữa đỉnh đầu - Rứa thì chừtui còn biết kêu ai! - Mừng nức nở, nước mắt đầm đìa hai má.

Nghi cởi trói cho Mừng. Hai tay được tự do, Mừng đứng bật dậy, vừa quệt nước mắt vừa nói:

- Chạy mau anh! Chạy mau cho tui được gặp mạ tui.

Hai em chạy đến một ngã ba. Cả hai đường đều đến được Xê-ca Bầy. Đường rẽtrái gần hơn, nhưng phải vòng qua đài quan sát cây Quao. Cả lối mòn phơi mình dưới mưa đạn đại bác và súng cầu vồng, và các loại đạn bắn thẳngcủa giặc. Con đường rẽ trái lấp bên kia sườn núi, xa hơn nhiều nhưng antoàn hơn. Cả hai lối Mừng đều thuộc lòng, em rẽ lối trái. Nghi chạy sau, quát to:

- Không đi đường đó? Quay lại!

Mừng quay lại, ngạc nhiên hỏi:

- Đường ni gần hơn mà anh?

- Nhưng chạy xuống Hoà Mỹ cũng gần!

Cặp mắt Mừng vụt lóe ánh giận dữ. Nhưng em không cãi lại. Em nhẫn nhục quay lui, rẽ sang lối phải. Em cắm đầu chạy, chân không bén đất, Nghi theođược Mừng gần đứt hơi, nhưng em không gọi Mừng chạy chậm lại, cứ rángsức đuổi theo.

”Chừ hắn là thằng Việt gian, đời mô chịu để cho hắn biết mình chạy thua hắn!“. Em nghĩ vậy.

7

- Mạ ơi! Mạ! Mạ! Con đây mạ! - Từ ngoài cửa lớn, Mừng chạy ào vào, kêu to thất thanh.

Tiếng gọi mạ của người chiến sĩ thiếu niên không may gặp phải chuyện oankhuất, có một âm sắc xé lòng, đến nỗi ba mươi năm sau, bác sĩ Lê KhắcThiền còn nói: “Mỗi lần tôi bất chợt nhớ lại tiếng gọi mạ của em ngườitôi cứ nổi hết gai ốc!“.

Từ lúc Nghi xách súng chạy ra khỏi lán, chịtổ trưởng dân công mắt cứ mở trân trân nhìn ra phía cửa lán, người chịgần như bất động. Cả gương mặt chị, từ ánh mắt, từ làn da ngả dần sangmàu sáp trong, từ vầng trán xâm xấp mồ hôi, cặp môi héo hắt, ngầm ngậpnỗi chờ khắc khoải đến kinh khiếp.

Và như kiệt sức vì đợi chờ, chịbắt đầu rơi vào tình trạng hôn mê. Có lẽ lúc này thần chết đang níu kéochị, và chị tuyệt vọng, bất lực, cố sức trụ lại. Bàn tay chị bíu chặtthành cáng, như người sắp chết đuối bíu chặt mảnh ván thuyền.

Mừng ngồi thụp xuống bên cáng, ôm chùm lấy đầu mẹ, lay lay gọi chuyển động cả gian lán.

- Mạ! Mạ! Mạ tỉnh lại đi! Con đây mà mạ!

Mặt em cúi gần chạm mặt mạ, vừa gọi vừa khóc như mưa như gió. Nước mắt emnóng hổi, lã chã rơi xuống mặt mạ. Có lẽ tiếng lay gọi và những giọtnước mắt nóng bỏng của con trai đã giúp người mẹ vùng ra khỏi cáng taysiết chặt, níu kéo của thần chết. Chị vụt mở bừng mắt, nhìn con trântrân. Chưa bao giờ chị nhìn mặt con sát gần đến như thế. Hình như chịvẫn chưa dứt khỏi cơn mê sảng, có thể chị tưởng là nhìn thấy con trongmơ. Và trí nhớ chị như vụt hồi phục. Cặp mắt chị sống động hẳn lên. Chịđưa hai tay ôm mặt con, kéo sát gần hơn nữa, rồi đẩy ra xa một chút đểnhìn cho được rõ. Miệng chị nửa như cười, nửa như mếu. Chị nói, giọngtỉnh táo khác thường:

- Con đó à Mừng? Rứa là mạ đã được chộ mặt con…

- Ui chao, đời mạ răng mà rủi ro đau đớn đến nước ni, con ơi! Mạ nghe nói con đi theo thằng Năm-ngựa làm Việt gian… Con dại dột quá con ơi… Nhưng cũng do lỗi tại mạ hết… Con hư tại mạ… Chừ mạ sắp nhắm mắt, xuôi tay,mạ phải nói rõ đầu đuôi đời mạ, đời con, cho con biết. Thằng Năm-ngựakhông phải cha con mô. Quê mạ con mình tận ngoài Quảng Trị tê. Cha conrủi chết từ lúc mạ có mang con được ba tháng. Cha, mạ thương nhau hung…lỡ ăn nằm với nhau mà chưa kịp cưới xin. Cha con bệnh nặng, nghèo quákhông có tiền thuốc thang nên phải chết. Mạ đành mang tiếng gái chửahoang. Xấu hổ ê chề, mạ bỏ trốn khỏi làng, lần mò vô thấu Huế, tìm đường sinh sống, chờ ngày sanh con. Mạ tứ cố vô thân, khờ dại quá, không biết làm chi ngoài việc hàng xéo, hàng xay. Mạ đi ăn mày ăn xin thì mạ không quen. Nhiều lúc mạ đã định nhảy xuống sông trầm mình cho xong một đời,nhưng nghĩ đến giọt máu cha con để lại trong bụng mạ, nên mạ phải gẳnggỏi sống mà đợi ngày… Rồi đến bước cùng quẫn quá, mạ đành phải bán thânnuôi miệng, làm gái đĩ trên sông… Bởi rứa mà có lần con chạy chơi mô vể, con kêu: “Con đĩ! Con đĩ “. Mạ thất sắc hết hồn: Mạ sinh con, đem gửicon cho mệ Lạp dưới làng Phò, thuê mệ trông nom nuôi nấng con. Thángtháng được đồng mô mạ gom góp đưa hết cho mệ trả tiền công nuôi dưỡngcon… Mệ Lạp mà con tưởng là mệ ngoại con đó. Năm con hơn một tuổi, chậpchững tập đi, thì mạ gặp thằng Năm-ngựa là đứa du côn chuyên nghề đâmthuê chém mướn. Hắn lăn lóc say mê chút nhan sắc thừa của mạ, xin bỏtiền chuộc ra khỏi tay mụ trùm, cưới mạ làm vợ. Mạ giao hẹn với hắn: Nếu anh chịu nhận thằng con tui là con đẻ của anh, thì tui xin theo khônganh, chẳng cần cưới hỏi làm chi. Để con tui được có cha. Tôi xin suốtđời hầu hạ anh như đứa ở, anh muốn hành hạ chi tui cũng xin chịu… Mạ sợcon lớn lên, biết mình không có cha, con tủi hổ với bạn bè. Hắn lấy mạ,rồi đánh đập hành hạ mạ, như răng thì con biết rồi… Hắn là đứa giếtngười không gớm tay, là đồ bạc ác bất nhơn. Róc xương róc tuỷ mạ. Hắnđòi chi mà mạ không kịp cho thì hắn doạ: “Tao sẽ nói cho thằng con mibiết tao không phải là cha hắn, mà mi là đồ con đĩ. Con mi hắn sẽ khinhmi như con chó!“.

Kể đến đó, môi chị bỗng run rẩy, láp bắp cái gì đókhông thành tiếng, và nước mắt bật trào chảy như xối. Chị cầm lên một.mớ tóc chùi nước mắt, rồí níu mặt con sát gần mặt mình, kể tiếp:

”…Rồi hắn bỏ đi lấy vợ khác, mà vẫn không thôi quay về hành hạ mạ, rócxương róc tuỷ mạ. Mạ phải mang nợ hắn suốt đời con ơi. Hắn cướp cả đôibông tai vàng một chỉ mà mạ để dành để dụm, để sau ni cưới vợ cho con…Rồi mặt trận Huế bùng nổ, con trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn. Mạ cứ tưởng conchết sông chết hói, mạ đã định ra sông trầm mình mà chết theo con. Mạsống là vì con. Mạ phải chịu trăm cay nghìn đắng, nhục nhã ê chề, lútmày lút mặt cũng vì con. Con mà chết rồi thì mạ còn biết sống làm chi.Rồi mạ hay tin con đi Vệ Quốc Đoàn, mạ mừng biết mấy. Con theo chánhphủ, theo kháng chiến, đời con rứa là được nên người. Mạ trông ngàytrông đêm cho mau đến ngày nước nhà độc lập, cho mạ con mình được gặpnhau. Rồi bể mặt trận… Vệ Quốc Đoàn ta chạy tứ tán, mạ không biết concòn sống hay chết, con còn theo Vệ Quốc Đoàn hay thất lạc đi mô… Mạ gánh gánh bún trên vai, bán mua đắp đổi qua ngày, đi. hết làng này qua làngkhác từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, cốt để dò la tin tức con. Mạ đến làngmô, họ cũng nói: “Chị muốn tìm Vệ Quốc Đoàn thì phải lên côi xanh(1) màtìm“. Rứa là mạ xin đi tiếp tế các chiến khu - Tỉnh Thừa Thiên mình cóbao nhiêu chiến khu mạ đều có đến hết. Nhưng mạ chẳng thấy tăm dạng conmô. Mạ đang ở dưới Thệ Chí thì nghe tin chiến khu Hoà Mỹ giặc nhẩy dù,bao vây chiến khu, Vệ Quốc Đoàn ta cạn lương sắp chết đói. Mạ liền đônđáo chạy tới xin các anh du kích, cho mạ đi tiếp tế gạo, muối. Bom rơiđạn nổ mạ cũng liều… chỉ có chiến khu Hoà Mỹ là mạ chưa tới, chưa chừngcon mình hắn đang theo Vệ Quốc Đoàn, đánh giặc trên đó… Mạ nghĩ rứa màmạ bị Tây bắn nát chân, thủng bụng; mạ cũng gắng gùi gạo bò lết cho thấu chiến khu, con ơi“. Rứa mà chừ mạ được gặp con thì té ra con đi làmViệt gian, bị Chánh phủ giam tù. Ôi chao, đau lòng mạ quá con ơi! Biếtnông nỗi ni thì mạ đừng gặp con còn hơn!…

Giọng chị vụt nghẹn tắc.Một nỗi đau đớn khủng khiếp chẹn ngang cổ chị. Cả người chị bỗng runglên lẩy bẩy như con cá nằm trên thớt bị một lát sống dao giữa đỉnh đầu.Mấy vết thương ở bụng chị máu lại ộc ra rịn thấm qua tấm chăn đắp. Chịco giật liên tiếp rồi tay chân duỗi thẳng, đầu ngật sang một bên, bấtđộng.

Bác sĩ Thiền và mấy chị y tá, hộ lý xúm lại quanh chị, định tiêm thuốc cấp cứu. Bác sĩ Thiền vạch mi mắt chị, nhìn rồi lắc đầu:

- Muộn mất rồi!…

Chị đã trút hơi thở cuối cùng.

Mừng hai tay ôm chặt lấy đầu mạ, mắt nhìn trân trân không chớp. Cả người emnhư chết lặng, nét mặt ngơ ngác, hoảng loạn. Rồi em như vụt hiểu ra: Nỗi khủng khiếp nhất đời em đã điểm?

Miệng há to, đôi mắt sưng vù vì khóc, cặp môi run bần bật, em bỗng thét to đến bất ngờ:

- Mạ! Mạ. Không phải! Không phải! Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn! Mạ ơi!

Tiếng kêu thét của Mừng có một âm hưởng xé ruột, làm mọi người rởn hết gai ốc.

Em sà vào ngực mạ, ôm đầu mạ nâng khỏi cái gối bao tải. Em vừa lay lay đầu mạ vừa ngó mặt mạ với ánh mắt đau đớn đến điên dại. Em vừa khóc vừa kêu la tuyệt vọng, lặp đi lặp lại một câu:

- Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn!

Những người đứng chung quanh đều nước mắt ngắn dài.

Nỗi đau đớn đến điên dại và tiếng kêu la tuyệt vọng của Mừng, làm cho mọingười trong khoảnh khắc vụt có ý nghĩ: “Hay là nó bị nghi oan thật? Cólẽ nào sự giả trá lại biểu hiện được một nỗi đau đớn kinh khiếp đến nhưvậy?. Nhưng mọi người không kịp nghĩ thêm gì nữa, vì đạn đại bác giặc đã bắn chuyển làn. Đạn mỗi lúc rơi một dồn dập xuống khu vực quanh bệnhviện. Tiếng gầm rít của phi cơ phóng pháo giặc, xé ngang cắt dọc bầutrời chiến khu. Không thể nấn ná thêm được nữa, phải rút ngay khỏi khuvực bệnh viện như chỉ thị của trung đoàn trưởng.

Các anh chị y tá, hộ lý, bác sĩ Thiền, cả em Nghi cùng xúm lại đào huyệt để mai táng mẹ củaMừng. Huyệt đào dưới gốc cây vả rừng lưng dốc núi, kề bên ngôi lán cuốicùng. Chính cây vả rừng này em Quỳnh vẫn thường ra hái lá để viết vởnhạc kịch kể chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mạ.

Xác chị tổ trưởng đâncông anh hùng được bọc trong chiếc chăn đơn cũ kỹ loang lổ chính máuchị. Mừng như đã hoá điên, cứ ôm chặt lấy xác mẹ, không cho mang đichôn. Mọi người phải gỡ em ra, ôm chặt lấy em, mới đưa được xác chị.

Xác chị vừa được đặt xuống đáy huyệt, Mừng đã vùng vẫy thoát ra khỏi tayngười ôm giữ. Anh y tá phải kêu lên: “Nó khỏe cách chi trời ơi!“.

Mừng nhào xuống đáy huyệt, ôm chặt xác mạ, nức nở kêu gào:

- Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn mạ ơi!

Mọi người phải khó nhọc mới kéo được em lên để lấp đất.

Nghi vừa quệt nước mắt, vừa nói với Mừng:

- Chừ mi phải về, không các anh chờ.

Nghi khoác súng vào vai, cầm tay Mừng lôi kéo mếu máo, van vỉ:

- Đi! Đi! Mi đi cho tau nhờ với! Tau đã xin cho mi đi gặp mạ, chừ mi phải biết thương tau…

Mừng như người mất hồn, lảo đảo bước theo bạn.

Đại bác nổ rất gần, em cũng chẳng buồn cúi núp.

Mỗi lần nghe tiếng đạn rít xèo xèo, Nghi phải chụp tay Mừng, kéo nằm rạp xuống tránh đạn.

Nghi nổi xung, gắt um:

- Mi phải núp chứ, lỡ trúng đạn thì làm răng?

Mừng khóc hu hu:

- Chừ tui núp mà làm chi! Cho hắn bắn chết quách tui đi cho rồi!

Máy bay giặc bắt đầu bắn và dội bom xuống cánh rừng hai em đang băng qua.Khắp bốn phía núi ùn ùn dựng lên các cột khói còn cao hơn cả ngọn câyrừng cao nhất. Núi lay, cây đổ, đất đá từng tảng lớn quăng ngược lêntrời. Mửng vẫn cứ bước đi lừng lững như không hề nghe thấy gì. Em nóinhư trong cơn mê sảng:

- Con mang phải tiếng xấu Vìệt gian. Chừ mạcùng chẳng tin con… Mạ ghét con… Mạ nói thà mạ đừng gặp con còn hơn… Con làm răng nói cho mạ biết được chừ…

Đi đến chỗ ngã ba, một quả bomđen chũi lao xuống ngay sườn núi trước mặt. Nghi hoảng hồn, nhào xuốngmột cái hố đại bác cạnh lối đi. Núi rung lên, lở ào. Một thân cây bằngngười ôm bị mảnh bom phạt đứt đổ nằm ngang trên miệng hố.

Em không núp nhanh chắc đã bị thân cây đè chết. Em chưa kịp ngẩng đầu lên, một loạt đạn đại bác đã nổ rầm rầm xung quanh.

Dứt đợt nổ, Nghi nhảy lên miệng hố thì Mừng đã biến mất.

Chú thích:

(1) Trên núi

8

Trong lúc Nghi còn năm dưới hố đạn tránh bom Mừng như vụt bừng tỉnh cơn mêsảng, cắm đầu chạy lộn lại phía Xê-ca Bảy, theo con đường vòng qua đàiquan sát cây Quao. Em chạy như trong cơn mê, không chú ý đến tiếng bomđạn gào rú quanh mình. Con đường lúc này bị bom đạn cày nát, ngổn ngangnhững cây đổ, những đất đá sụt từ đỉnh núi xuống chắn ngang lối đi. Emvọt qua, chui qua, trèo qua, không một chút ngập ngừng, ngạc nhiên,tưởng như em đã từng qua lại trên con đường như thế cả trăm lần rồi.

Nhưng khi chạy đến chân đài quan sát cây Quao, em phải đứng sững lại. Quangcảnh bày ra trước mắt em kinh hoàng, dữ dội đến nỗi em phải đứng chếtlặng, miệng há hốc như con cá bị lôi lên khỏi mặt nước. Quanh gốc câychân đài quan sát, đất đá rễ cây, bị cày nát, xé tướt, lá tươi rụng ràorào như mưa. Nằm quanh gốc cây là năm xác người. Ba xác các bạn Châu,Hiền, Hoà-đen, và hai anh lớn. Các anh, các bạn nằm lẫn lộn với lá tươirụng, cành cây gãy, rễ cây bị xé nát.

Tất cả áo quần của năm ngườiđều ướt sũng máu. Châu-sém bị trúng đạn đum đum, bụng mở phanh. Hiền bịđạn vào ngực. Hoà-đen bị mảnh bom phạt cụt một chân. Bạn nào cũng nằmchết trong tư thế co quắp, đầu và thân hình bị dập nát vì ngã nhào từtrên ngọn cây chót vót xuống đất. Em nhìn trật sang cái thang tre, thấyđội trưởng nằm dựa đầu vào nấc thang cuối cùng, và chỉ còn một cánh tay. Hình như anh vừa đặt chân trèo lên thang thì bị trúng đạn.

Tít trên cao, chỗ đặt đài quan sát, chuông điện thoại đổ dồn leng keng không ngớt.

Mừng chạy xô lại, áp tai vào ngực đội trưởng thấy tim anh vẫn còn thoi thópđập. Em túm tóc mai anh giật giật, lay gọi anh. Anh hồi tỉnh, mở bừngmắt nhìn em đăm đăm.

- Mừng đó à, răng em lại ở đây?

- Mẹ em chếtrồi. - Mừng nức nở cố nén không khóc. - Mẹ em cũng nghi em là Việt gian. Chừ em phải đến chỗ mẹ em… Em phải nói răng cho mẹ em đừng nghi em nữa…

Tiếng chuông điện thoại từ trên ngọn cây vẫn leng keng dội xuống từng hồi,hối thúc, cấp bách… Cặp mắt đội trưởng vụt sáng lên mừng rỡ. Anh nói như reo:

- Đã nối được đường dây rồi! Mừng. - Đội trưởng gọi và giọnganh trở lại giọng người chỉ huy lúc ra lệnh chiến đấu. - Em trèo mau lên ngọn cây cầm ống nghe báo cáo với Trung đoàn trưởng: Cách đây hai mươiphút đài quan sát bị địch phát hiện. Chúng tập trung hoả lực tiêu diệtđài quan sát. Đường dây bị đứt. Anh chạy đi nối lại được đường dây, vềđến chân thang thì bị trúng đạn đại bác… Em chú ý quan sát, lúc thấytoán địch đi sau cùng, qua khỏi bãi trống thì báo ngay cho trung đoàntrưởng biết. Em nhớ rõ chưa?

Đội trưởng chưa kịp nghe Mừng trả lờithì đã ngất đi, mê man… Mừng vùng đứng ngay dậy. Tất cả vẻ ủ rũ, đauđớn, tuyệt vọng trên toàn bộ con người em, thoắt biến mất. Em lúc này đã trở lại tư thế quyết liệt của người chiến sĩ quyết tử lúc nghe vang lên tiếng kèn xung phong trận.

Tiếng máy bay gầm rú trên ngọn cây. Đạn đại bác và các loại súng cầu vồng nổ chát chúa quanh chân đài quan sát.

Súng bắn thẳng bẻ, xé các cành cây trên đỉnh đài, tuốt lá tươi ném tới tấpxuống đầu cổ em, xuống xác các đồng đội đang nằm ngổn ngang quanh em.Mảnh đạn, đạn cháy, đạn đum đum, mảnh bom, bay rít quanh em như ong vỡtổ. Và nổi bật lên tất cả là tiếng chuông điện thoại từ trên đỉnh đàiquan sát đổ hồi leng keng không ngớt.

Tất cả những cái đó, cùng mộtlúc đã làm cho khí phách chiến sĩ lúc xung trận trong em bừng sống dậy,với tất cả sức mạnh tinh thần của nó: Nó chiếm lĩnh toàn bộ con ngườiem, từ mỗi thớ thịt, mỗi nhịp tim đập.

Em thoăn thoắt trèo ngược cácbậc thang tre cao ngất nghểu, cố chiếm lấy đỉnh đài quan sát trước khibị địch bắn hạ. Khi chỉ còn cách chỗ cành cây đặt máy điện thoại mấy nấc thang cuối cùng, em bỗng lạng người, suýt ngã lộn nhào xuống đất. Mộtbên hông em buốt nhói ghê gớm. Em cúi nhìn thấy vạt áo bên hông trái đầm đìa máu. Nhưng em gắng hết sức để không ngã. Trèo nốt những nấc thangcuối cùng lên đến chạc ba cây, và chụp lấy cái ống nghe điện thoại.

9

Trong hầm chỉ huy, trung đoàn trưởng đã gần như tuyệt vọng. Ông nghe điệnthoại áp sát tai, ông đã gọi suốt hai mươi phút liền vẫn không nghetiếng đài quan sát cây Quao trả lời, chỉ có tiếng nổ lục bục liên hồivang dội trong ống nghe.

Tiếng đạn nổ. Ông chắc bọn địch đã đánh vàođài quan sát và các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài đã bị giết. Hai cán bộ tham mưu ngồi cùng hầm với ông, đã được ông cử đến tăng viện cho đài quan sát mười lăm phút trước đây. Nhưng ông không hy vọng lắm họ có thể đến nơi. Ông biết con đường đến đài quan sát đang bị bọn địch tập trung đánh phá dữ dội.

Trong hầm lúc này chỉ còn một mình ông. Ở hầm bên cạnh, anh chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn, vài phút lại hỏi vọng sang:

- Đã sắp chưa anh?

Ông càng thêm cháy ruột cháy gan. Mất liên lạc với đài quan sát, trận địamìn sẽ như người khổng lồ mù mắt, nó có thể dồn tất cả sức mạnh khủngkhiếp của nó đánh vào chỗ trống không.

Vừa lúc đó, trong ống ghe bỗng vang lên giọng trẻ con:

- A lô! A lô Trung đoàn trưởng, trung đoàn trưởng!

Ông mừng đến nghẹn thở:

- Làm sao hai mươi phút qua im bặt thế?

- Dạ, đài quan sát bị đánh. Cả tổ quan sát hy sinh rớt hết xuống chân đài.

- Đội trưởng đâu?

- Dạ, đội trưởng cũng hy sinh rồi, nằm dưới chân thang.

- Thế em là ai?

- Dạ em là thằng Mừng…

- Mừng?… Có phải chú Mừng…

- Dạ, em bị cả chiến khu nghi là Việt gian… Em bị bắt giam ở Xê-ca Năm…Bất thình lình em chạy qua đây. Đội trưởng giao nhiệm vụ cho em.

- Hiện lúc này em có làm sao không?

- Dạ, tụi địch đang bắn vô đàỉ quan sát dữ lắm. Em bị thương ở hông, ở chân. Nhưng em vẫn quan sát được.

- Bọn địch đã vào đến bãi trống chưa?

- Dạ, tụi đi đầu mới bắt đầu vô. Đi trước có toán người rất đông không mang súng, chỉ mang vác các hòm đạn…

- Dạ toán tiếp theo toàn Tây đen, Tây trắng, đi hàng bốn.

- Dạ toán đi giữa đang đi thì đứng lại, chỉ chỏ cái chi đó…

- Tụi hắn không đi mà nằm lại hai bên đường chĩa súng vô núi bắn rầm rầm.

- Dạ, toán cuốì cùng rất đông… - Giọng báo cáo bỗng tắt lại có đến nửa phút. - Dạ, tụi hắn đã vô hết bãi trống…

Trung đoàn trưởng đứng dậy trong hầm chỉ huy hô to:

- Nổ mìn.

Một tiếng nổ làm rung cả ngọn núi ông đang ngồi và tiếp liền đó là hàngtrăm tiếng nổ tlếp theo như sấm sét, trùm lấp cả tiếng máy bay, tiếngđại bác giặc. Trung đoàn trưởng thét lên trong ống nghe:

- A lô! A lô! Em Mừng! Em Mừng!

Không có tiếng trả lời.

Ông gọi lại:

- Mừng! Mừng! Em còn trên đó không?

Tiếng người chiến sĩ thiếu niên trinh sát bỗng đột ngột vang lên bên tai ông, yếu ớt nhưng rành rọt lắm:

- Dạ em đây. Tụi Tây chết nhiều lắm. Em bị thương nặng.

- Mừng! Mừng!

- Anh ơi, anh đứng nghi em là Việt gian nữa anh hí!

Lời cầu xin khẩn thiết cuối cùng của người chiến sĩ thiếu niên vừa trònmười ba tuổi đời, yếu ớt và nhỏ gần như một hơi thở, nhưng trong khoảnhkhắc ấy đã trùm lấp cả tiếng bom đạn giặc, và cả tỉếng sấm rền của trậnđịa mìn đã làm tanh bành hơn hai đại đội giặc.

Cuộc tấn công tổng lực của giặc vào chiến khu Hoà Mỹ đả hoàn toàn bị bẻ gẫy. Nỗi kinh khiếptrận địa lôi chiến làm bọn giặc ngày đêm hôm đó dạt sang bên kia bờ sông Ô Lâu.

Cũng đêm hôm đó. toàn bộ chiến khu đã rút khỏi vùng rừng núiHoà Mỹ, dời thẳng về Dương Hoà một vùng đất đai núi non nằm dọc bên tảngạn thượng nguồn sông Hương. Và làng Dương Hoà trở thành chiến khuDương Hoà, chiến khu đầu não của tỉnh Thừa Thiên.

Trước giờ lên đường vể chiến khu mới, những đơn vị rút lui cuối cùng đã làm lễ mai táng cho các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài quan sát cây Quao. Họ đào huyệtchôn các em, các anh, gần chân đài quan sát.

Riêng em Mừng, trungđoàn trưởng cho đưa thi hài em chôn bên cạnh mẹ em dưới bóng cây vả rừng cổ thụ. Cây vả rừng mà Quỳnh-sơn-ca thường hái những ngọn lá ngả màuvàng chanh làm giấy chép nhạc, viết vở nhạc kịch mộng tưởng của đờimình, kể chuyện bạn Mừng đã trèo tuốt tất cả những đmh cây cao của thành phố quê hương để tìm thuốc về chũa bệnh cho mẹ.

Ngọn núi có cây vảrừng cổ thụ từ trước đến nay không có tên. Trong bản đồ tham mưu đượcghi là đỉnh Chín Sáu. Sau đêm hôm đó, ngọn núi đã được có tên:

Núi-Mẹ-Con-Em-Mừng.

Hết

Khởi thảo bên bờ Hồ Tây năm 1968

Hoàn thành trong lều cỏ giữa hồ Tịnh Tâm năm 1986.

TruyenFull.com đổi tên miền thành TruyenFull.tv