1
Mồng một Tết. Trong lúc nhân dân ở thành phố, ở đồng bằng, mặc áoquần đẹp, đi lại chúc tết nhau: “Vạn sự như ý”, thì các chiến sĩ tiểuđoàn mười tám xuất phát từ chiến khu Truồi, lội suối băng rừng, hànhquân về phía đèo Phát Tượng - một ngọn đèo hiểm trở vùng cực nam Thừaqhiên.
Ngoài súng đạn, ba lô, ruột tượng gạo rang làm lương khô, mỗichiến sĩ được phát hai đòn bánh tét. Số bánh tét này là của nhân dânkhắp các làng quê huyện Phú Lộc gởi lên chiến khu ủng hộ bộ đội vàonhững ngày trước Tết. Ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định để dành toàn bộsố bánh làm lương ăn cho trận đánh phục kích tàu ở đèo Phát Tượng màtiểu đoàn đã nghiên cứu chuẩn bị từ một tháng trước đó. Dự kiến của Banchỉ huy, trận đánh có thể kéo dài từ một đến ba ngày.
Trưa mồng bốnTết, cả tiểu đoàn đã nằm trên trận địa phục kích, dưới mưa xuân rả rích. Mưa không nặng hạt, đúng điệu mưa xuân, nhưng phải dầm mưa suốt ngàyđêm, áo quần của các chiến sĩ đều ướt sũng, nước ngấm vào da thịt lạnhthấu xương… chờ địch đã qua một ngày, một đêm, địch vẫn chưa xuất hiện.Mỗi chiến sĩ bóc đến đòn bánh tét thứ hai…
Ở trung đội trợ chiến, một chiến sĩ xạ thủ súng mười hai ly bảy, bóc đòn bánh tét của mình, đònbánh được gói rất khéo. Hai đầu đòn bánh đều nhau, tròn trịa như cải ống bương, khéo từ lá gói, đến nút lại lạt buộc.
Anh chiến sĩ vừa mở lá một đầu đòn bánh, mắt bỗng trợn tròn, ngạc nhiên. Anh gọi hai người bạn cùng đang bóc bánh:
- Lạ quá các cậu ơi! Trong đòn bánh tét của mình có bức thư?
Bức thư được bọc cẩn thận trong mảnh lá chuối hơ lửa, viết bằng mực tím,nét chữ nắn nót nhưng xiêu vẹo của người mới biết đọc biết viết. Bức thư chắc là được bỏ thêm vào sau khi bánh đã luộc chín nên nét chữ khôngnhòe. Ba chiến sĩ ngồi xổm dưới công sự đào dưới lùm cây rậm, tụm đầuđọc bức thư:
”Kính thưa các anh bộ đội!
Dạ thưa các anh tui tên là Niệm, làm nghề bán bún bò gánh: Trước tê tui ở Bao Vinh, tui có đứa con tên là Mừng, cháu mười ba tuổi, cháu trốn tui đi theo các anh Vệ QuốcĐoàn đánh Tây ở Huê. Dạ, đời tui chỉ có một mạ một con cực khổ trần ailắm các anh nờ. Tui gắng gỏi sông cũng chỉ vì con, mặt trận Huế bể,người trong xóm tui rủ nhau hồi cư hết, nhưng tui về mà làm chi các anhơi, về mà lui cui lút cút một đèn, một bóng thì thà chết đường chết chợcho xong. Tui gánh bún bán mua đắp đổi qua ngày côt để tìm con tui coicháu còn sống hay chết, mà tìm khắp sáu huyện chẳng thấy tăm dạng conmô.
Tui nghe đồn cháu theo các anh lên chiến khu, tui xin du kích uỷban các xã, các huyện cho tui đi theo gánh đồ đoàn tiếp tế lên chiến khu để tìm cháu mà chiến khu mô cũng nói với tui là không chộ cháu ở đây,cực thân tui lắm các anh nờ. Bữu ni nhân ngày Tết nhất! Tui gói năm đònbánh tét mô tui cũng bỏ một phong thơ như ri, gửi lên cho các anh ởchiến khu ăn Tết, may ra các anh ăn trúng đòn bánh của tui đọc thấy thơni biết được con tui chừ đang ở mô thì gửi giấy về làng Thệ Chí Đông tin cho tuỉ biết với. Được như rứa tui đội ơn các anh suốt đời.
Nay kính thơ
Niệm”
Anh chiến sĩ bóc đòn bánh tét tên là Tiến, trước đây là cu li nhà máy vôiLong Thọ. Anh mồ côi cha mẹ từ ngày mới chập chững biết đi. Hai vợ chồng người bác họ nuôi anh… Đời anh chưa bao giờ biết được thế nào là tìnhyêu của mẹ. Bởi vậy mà bức thư của người mẹ đi khắp các làng mạc hói hàcả tỉnh Thừa Thiên để tìm con làm anh lạ lùng lắm. Mãi đến hôm nay, hămba tuổi đẩu, do bức thư tình cờ tìm thấy trong đòn bánh tét anh ăn trước giờ xung trận, anh mới phát hiện ra một điều rủi ro bất hạnh lớn nhấtcủa đời anh là không biết được tình yêu của mẹ. Và anh đã khóc. Thấy anh khóc hai người bạn trong tổ đại liên mười hai ly bảy nói:
- Có rứa mà cũng khóc. Vô duyên òm? - Nhưng chính mắt hai người cũng ướt nhòe.
- Mưa chi mưa ác! Thúi đất thúi đai! - Hai anh nói và quay mặt chùi vội nước mắt.
Anh xạ thủ Tiến có một nhược điểm làm cả đơn vị thường xúm lại trêu chọc:Anh không nói được vần tờ. Tên anh là Tiến anh tự xưng là Yến, tiểu đoàn trưởng anh gọi là yểu đoàn ưởng, bức thư anh gọi là bức hư.
Tiến bò dọc theo mép đồi, đến công sự của Ban Chỉ huy tiểu đoàn, nộp bức thư và kể lại đẩu đuôi.
Chính trị viên Lê Bích đọc đi đọc lại bức thư ba lẩn. Lát sau có thêm haichiến sĩ ở đại đội một bò đến, nộp một bức thư giống hệt bức thư Tiếnnộp.
Anh Tiến ngồi trên mép công sự, chằm chặp nhìn chính trị viên tiểu đoàn. Anh hỏi:
- Chừ anh định răng với cái “hư ni”?
- Theo ý đồng chí ta nên như thế nào?
- Heo ý ui, a phải đi ìm con giúp cho chị ni.
- Nếu tôi cử đồng chí đi làm nhiệm vụ này, đồng chí có đồng ý không?
- Lúc mô đi!
- Đi ngay bây giờ, mà chuyến đi sẽ vất vả ghê gớm đấy. Đồng chí phải đixuyên dọc Trường Sơn, ghé qua tất cả các chiến khu từ cuối tỉnh đến đầutỉnh. Bỏ rẻ cũng phải mất mười lăm ngày vượt núi. Tìm thấy hay không,đồng chí phải từ chiến khu Hoà Mỹ về đồng bằng, vượt phá Tam Giang qualàng Thệ Chí, tìm chị đó báo tin cho chị biết. Đồng chí có biết làng Thệ Chí không?
- Có trước đây tui cũng có ra làng ni thuê thuyền chở đá vôi cho nhà máy.
- Từ làng Thệ Chí, đồng chí phải đi theo đường sát biển, qua cửa ThuậnAn, đi cho đến núi Tuý Vân, rồi nhờ thuyền đò của bà con ngư dân vượtđầm Cầu Hai, về lại chiến khu Truồi.
- Vất vả rứa chứ hơn nữa ui cũng chẳng ngại. Ui hương chị ta quá, ui muốn ngó mặt mũi chị như răng màhương con đến nước nớ… Ui chỉ iếc là không đánh được ận ni…
Chính trị viên kê tờ giấy khống chỉ lên xà cột, viết thư gửi các chiến khu:
”Kính gửi các đồng chí lãnh đạo các chiến khu: Bạch Mã, Truồi, Độn Bồ, Khe Tre, Nam Đông, Binh Điền, Trạm Ba, Trò, Hoà Mỹ.
Chúng tôi xin giới thiệu với các đồng chí, đồng chí Đặng Tiên là chiến sĩtiểu đoàn mười tám, có nhiệm vụ đến chiến khu của các đồng chí để tìmmột liên lạc tên là Mừng, con của người phụ nữ có bức thư mà chúng tôigửi kèm theo đây. Kính mong các đồng chí hết sức giúp đỡ đồng chí Tiên,tìm xem trong chiến khu của các đồng chí từ trước đến nay có em liên lạc nào tên là Mừng, nếu có mà đã hy sinh rồi thì cũng báo cho đồng chíTiên biết để đồng chí về báo với mẹ em hiện đang ở làng Thệ Chí.
Chào quyết thắng.
Chính trị viên tiểu đoàn mười tám.
Lê Bích”
Bị chú: Đồng chí Đặng Tiên của chúng tôi có một khuyêt tật là không nóiđược vần tờ. Bởi vậy trong lúc đồng chí Tiên trình bày, trò chuyện mongcác đồng chí nắm được và thông cảm“.
Chính trị viên điều ở đơn vị lên thêm cho Tiến một ruột tượng gạo rang, một ống muối ruốc ớt. Và trangbị cho anh một hộp diêm, một khẩu tiểu liên và hai băng đạn, một cây dao rựa.
Đúng như chính trị viên dự kiến, anh Tiến đã đi từ trận địaphục kích đến chiến khu Hoà Mỹ - chiến khu cuối cùng của Thừa Thiên -mất mười tám ngày ròng rã. Anh đã phải vượt qua hàng nghìn dốc núi, lộiqua hàng trăm con suối cạn, suối sâu năm lần chạm trán với cọp, voi, bòtót, lợn lòi, trăn thì không ngày nào không gặp. Anh đã ghé lại tất cảcác chiến khu đã ghi trong thư. Đến chiến khu nào, các đồng chí lãnh đạo cũng cho biết, cách đây tám tháng, sáu tháng, năm tháng, ba tháng… cómột chị tên là Niệm trong đoàn dân quân từ đồng bằng gánh gạo, muối,tiếp tế chiến khu, hỏi thăm đứa con trai của chị tên là Mừng, mười batuổi, trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn từ ngày mặt trận Huế nổ súng.
Bởi vậy, làm sao có thể tả hết nỗi đau đớn thất vọng của người Vệ Quốc Quân cótâm hồn hiệp sĩ này khi ra đến chiến khu Hoà Mỹ, được tin là chú bé liên lạc mà anh phải mất mười tám ngày trời băng rừng vượt núi, nhiều lầnsuýt làm mồi thú dữ, để tìm kiếm, lại là một tên gián điệp ranh ma, xảoquyệt, vô cùng lợi hại. Và cách đây chưa lâu, hắn đã cùng với một têngián điệp khác, đánh cắp bí mật của kháng chiến trốn khỏi chiến khu chạy về đồn giặc.
Cặp mắt anh vụt đỏ kè. Anh bặm môi, nghiến răng kêu lên dữ tợn:
- Hằng yên ni hề có ời đất, ui mà còn sống, nhất định có ngày ìm được cái hằng con ranh con lộn đó, ui nghiền nát đầu hắn ra như nghiền con rận!
Nhưng anh còn một nhiệm vụ nữa là phải tìm về làng Thệ Chí để báo tin chongười mẹ tìm con bất hạnh. Anh cảm thấy nhiệm vụ này còn khó khăn khủngkhiếp hơn cả nhiệm vụ báo tử. Anh thật sự hoảng sợ đến toát mồ hôi hộtmỗi lần nghĩ đến nó.
”Ui chao ôi, mới mười ba uổi mà hắn đã là mộttên gián điệp lợi hại, ranh ma, quỷ quyệt hì không biết hắn học cái nghề bán nước đó ừ khi mô?”
Anh cứ rên rỉ hoài như vậy trong suốt mấyngày liền nấn ná ở chiến khu Hoà Mỹ. Trong mấy ngày đó anh Tiến cứ ở với đội Thiếu niên Trinh sát. Các em bây giờ đã tập trung hết về đội. Saumột đợt học tập chuyên môn chính trị ngắn ngày, các em được phân côngphụ trách các đài quan sát của chiến khu. Nhiệm vụ bám địch ở đồng bằnggiao lại cho các anh lớn mới được trung đoàn bổ sung về đội. Do đó độibây giờ được đổi tên là Đội Trinh sát của trung đoàn. Anh Tiến hỏichuyện các em về “cái thằng Mừng Việt gian” tính nết thường ngày, mặtmũi hắn như răng? Nghe các em kể nó thân nhất với thằng Nghi liên lạccủa trung đoàn bộ, anh vô Xê-ca một tìm gặp Nghi hỏi chuyện.
Em Nghikể cho anh nghe chuyện cái đêm em đèo ngựa đưa Mừng về thăm mạ ở làngPhò. “Về đến ngõ hắn lại nhờ em vô nhà nhắn tin với mạ, còn hắn thì đứng nép ngoài hàng rào ngó vô mà khóc. Hắn sợ mạ đập đầu xuống đất mà kêula không cho hắn đi Vệ Quốc Đoàn nữa“. Anh Tiến ngạc nhiên nói: “Rứa hắn là đứa bụng dạ không đến nỗi mô hè?“. Nhưng ngẫm nghĩ một lúc, anh nóitiếp: “Đã mang thân đi làm Việt gian bán nước chắc chi hắn thật bụng?Hắn làm rứa cất để che mắt thế gian“. Và anh bỗng phát hiện ra một điềumới mẻ. “Chưa chừng cả con mạ hắn là Việt gian cũng nên, cha Việt gian,con Việt gian, thì mạ Việt gian là cái chắc! Thôi, đúng rồi con mạ hắngiả dạng xin đi tiếp tế lên chiến khu là cốt để dò la tin tức chiến khuvề báo cho Tây chứ tìm con tìm kiếc cóc chó chi! Việc sờ sờ ra rứa màmình không nghĩ ra, đúng là mình ngu hết chỗ nói“.
Đang từ thươngxót, cảm phục, anh chiến sĩ có tâm hồn hiệp sĩ, phút chốc đùng đùng nổigiận. Anh càng tiếc cay tiếc đắng cái công mười tám ngày đêm băng ngànlội suối đi tìm con giúp cho cả cái nòi Việt gian!
Rồi anh quyết định phải cấp tốc trở lại con đường cũ, báo ngay với các chiến khu biết đểđề phòng con mụ Việt gian giả đò tìm con. Và ngay trưa hôm đó, anh đeoruột tượng lương khô vào lưng, khoác khẩu tiểu liên, xăm xăm trở vềchiến khu Truồi, theo con đường rừng vô cùng gian khổ và nguy hiểm.
Một buổi sáng tinh mơ mùa hè năm 1948. Chiến khu Hoà Mỹ vừa mới thức giấc.Núi rừng, cây cỏ, sông Ô Lâu còn phủ kín trong màn sương trắng đục. Mộtchú bé không biết từ phía nào lại chui ra khỏi con đường lau lách, bướcvào trạm gác tiền tiêu phía tây nam chiến khu.
Chú bé độ cái mũ bêrêmàu rượu chát còn mới tinh kéo sụp che gần kín trán, mặc bộ áo quần kaki màu xanh lá cây, chân đi dép da. Cả người chú ướt đẫm sương. Chắc chúphải đi bộ cả đêm, lội qua nhiều khe suối, băng qua nhiều đám bùn lầynên hai ống quần ướt đến bẹn, trát đầy bùn, dính bết vào bắp chân. Gương mặt chú hốc hác, cặp mắt thâm quầng, bước đi lảo đảo kiệt sức. Chú béchào anh lính gác đang còn ngái ngủ:
- Anh ạ…
- Chú ở mô và mô đây sớm rứa?
- Anh không nhìn ra em à? Em thằng Mừng ở đội Thiếu niên Trinh sát đây mà.
Anh lính gác như không còn tin vào mắt mình nữa, bước đến nhìn sát vào tận mặt chú bé, kêu:
- Đúng ìà mi rồi? Mi còn dám vác mặt mo lên đây à? Chứ mi ở mô mò lên đây?
- Dạ, dưới đồn Sơn Quả. Em trốn khỏi đồn từ chiều bữa qua…
Nghe tiếng chộn rộn trước sân, cả tổ gác trạm gác tiền tiêu bước ra đứng vây quanh chú bé. Họ đều nhận ra đúng là Mừng, tên gián điệp ranh ma, xảoquyệt, cách đây ba tháng đã cùng với tên Kim điệp viên lợi hại trốn khỏi chiến khu.
Họ có thể tưởng tượng đủ mọi điều, nhưng việc Mừng dámtrở lại chiến khu và ngang nhiên khai rằng từ đồn giặc đến đây, thìngoài sức tưởng tượng của họ.
Anh tổ trưởng thốt lên:
- Thằng ni gớm thật?
- Mi là thằng gan già!
Gương mặt mệt mỏi của Mừng vụt tươi lên. Em tưởng đó là lời khen.
- Dạ… em phải chạy gần suốt cả đêm, mà phải toàn lủi trong bụi rậm. Emmệt quá, các anh cho em về lán ngủ một giấc rồi chút nữa em về đội. -Mừng nói, cặp mắt ríu lại, xắm nắm định bước vô lán.
- Ngủ à? - Anh tổ trưởng quắc mắc giận dữ. - Trói cổ nó lại!
Mừng đứng khựng lại, vẻ mặt ngơ ngác nhìn anh:
- Em làm chi mà trói em?
- Làm Việt gian gián điệp chớ còn làm chi?
Anh tổ trưởng bước tới, như sắp tát em. Em bước thụt lùi hốt hoảng đưa taylên đỡ mặt. Và lúc này em như vụt hiểu ra không phải các anh tổ trạm gác đùa vui với em như mọi lần.
Em rơm rớm nước mắt nói:
- Thằng Kim mới Việt gian chứ em đời mô…?
- Không nói lôi thôi! Trói cổ nó lại! Đồng chí Tánh. - Anh tổ trưởng gọimột trong ba chiến sĩ tổ gác - Vô Xê-ca Một báo ngay cho ban Quân báotrung đoàn ra giải quyết. Lấy sợi dây điện thoại ra đây. Phải rút kinhnghiệm xương máu, không được trói tụi ni bằng dây dừa.
- Ồ, thằng Kim vấn thuốc châm lửa giúp thằng gián điệp chớ có phải em mô…
- Bay cùng một duộc cả! Mới rãy mũi đã làm Việt gian bán nước. Tụi ni phải đem bắn quách, để sống làm chi cho nhớp đất?
Anh tổ trưởng hằm hằm nói, chụp hai cánh tay Mừng bẻ quặp ra phía sau lưng, dùng sợi dây điện thoại trói em giật cánh khuỷu. Trói xong, không nénnổi giận dữ, xô em một cái, em ngã chúi mặt cạnh chân cột lán. Từ trongbụng em văng ra một khẩu súng lục “côn mười hai”, nước thép xanh biếc.Anh nhảy tới chộp lấy khẩu súng như sợ em nhanh tay chộp mất.
Anh cầm khẩu súng, bàn tay rung rung như khẩu súng quá nặng, lật đi lật lạingắm nghía. Gương mặt anh méo mó vì tức giận. Anh chìa khẩu súng ratrước mặt Mừng, chửi:
- Tổ cha mi! Rứa cái chi đây? Mi còn chối nữa hay thôi?
- Thằng ni gớm thật! Anh lính gác nhìn nó với ánh mắt dễ sợ - Không trói hắn nhanh chắc hắn đã cho cả tụi mình ăn đạn!
Anh tổ trưởng bấm chốt kéo “sác-giơ” ra. Sác-giơ đầy đạn vàng chóe.
Mừng ngồi co rúm nép sát chân cột, nhìn các anh với cặp mắt ngơ ngác, thất thần, Em nói, môi run run:
- Khẩu súng nớ em lấy cắp của cha em… em định giấu mang về cho độitrưởng… Em… em… - giọng em bỗng nghẹn tắc. Em nhìn hết anh tổ trưởng đến mấy anh trong tổ gác. Em vụt hiểu ra, không một ai tin lời em hết. Embật oà khóc. Em ngọ nguậy cánh tay định đưa lên cùi nước mắt và em nhớra hai tay mình đã bị trói. Nước mắt giàn giụa, lã chã, tắm hai gò má,trôi xuống miệng, xuống cằm, giọt giọt xuống đất. và lúc đó phía ngoàiđường có nhiều tiếng chân chạy, tiếng hỏi chộn rộn, xôn xao:
- Mô? Mô? Thằng Việt gian mô rồi?
Mừng nhận ra giọng nói quen thuộc của các bạn.
Gần đủ mặt các bạn trong đội tràn vô sân trạm gác. Thì ra anh Tánh trênđường chạy vô Xê-ca Một, báo cáo với ban Quân báo trung đoàn, gặp các em đang rầm rập chạy ra sông Ô Lâu rửa mặt. Anh liền gọi các em.
- Các em ơi! Thằng Mừng lại mò lên chiến khu!
- Anh nói giỡn chi rứa?
- Thì các anh đã tóm cổ hắn trói ngoài trạm gác tề?…
- Ui chao! Chuyện chi hiện nguỵ! Ta ra coi đi. - Các em xôn xao kêu lên và chạy luôn ra trạm gác.
Gặp lại các bạn Mừng thổn thức nói:
- Các cậu ơi anh Du, anh Đoàn, anh Châu… nói giúp cho tui với. Tui không phải là Việt gian… các anh ni nghi tui…
Có lẽ em tin rằng các bạn sẽ xúm lại bênh em, cởi trói cho em. Nhưng cácbạn đứng túm tụm giữa sân, nhìn nó như chưa hề quen biết nó bao giờ.Nhiều em nhổ nước bọt, kêu lên, giọng ghê tởm, khinh bỉ:
- Nghi cứt chi nữa?
- Việt gian rành rành còn giả đò khóc?
- Mần Việt gian có khác? Bê-rê tề, áo quần kaki tề, xăng- đan tề?… Ngó mà gớm ghiếc!
- Trong người hắn lại giắt cả súng lục mới keng đây các chú nì! - Anh tổ trưởng đưa khẩu “côn mười hai” cho cả đội coi.
- Hắn mà gặp tụi mình giữa đường chắc hắn nổ cho tụi mình mỗi đứa một phát vô giữa đẩu!
- Nì! Mi ngửi cứt Tây có thơm không mi?
Hoà-đen hát rống lên bài “Mắng Việt gian”: “Mi nghe chăng hỡi ai mê mùi phú quý quên non sông”
- Rứa mà thằng Quỳnh còn viết cả nhạc kịch để khen hắn nữa chớ? Thằng Quỳnh mà biết chuyện ni, chắc hắn phải chết thêm lần nữa?
- Đồ chó? - Châu-sém bước đến đứng sát trước mặt Mừng chửi với ánh nhìntóe lửa. Rồi thuận tay, Châu-sém chụp cái mũ bê-rê trên đầu Mừng quăngxuống đấy, lấy chân chà lên. - Mi đi mần Việt gian cho sướng cái thânmi, mà để lây tiếng xấu cho cả đội! - Nó nhổ cả một bãi nước bọt totướng trúng bẹt giữa khuôn mặt đầm đìa nước mắt của Mừng.
Bồng-da-rắn cũng bước đến đứng cạnh Châu-sém, nhìn Mừng chăm chăm. Ánh mắt em không giận dữ khinh bỉ như các bạn, mà lộ vẻ đau đớn, buồn bã đến xé lòng.
Trước những lời nguyền rủa của các bạn, gương mặt Mừng tái nhợt như xác chết. Em ngước nhìn Bồng, ánh mắt van lơn, cầu khẩn. Ánh mắt con chim non bịngười ta vặn cổ, sắp chết.
- Anh Bồng, anh nói giúp cho tui với, -Mừng lắp bắp nói qua nước mắt. - Anh ngửi được mùi Việt gian, mùi VệQuốc Đoàn mà… Anh nói giúp cho tui với…
Bồng không nói gì, vẻ mặt lầm ìì, nhìn hai cánh tay Mừng bị trói chặt bằng dây điện thoại, hai bàn tay bị tụ máu đỏ lên.
Nó nói với anh tổ trưởng trạm gác:
- Anh trói hắn chặt quá. Nới bớt cho hắn một chút…
- Chú mi thương hắn à? Phải trói chặt hơn nữa tê? Trói lỏng để cho hắnchồm lên giật súng bắn chết anh ẻm mình, như cái thằng cha mua mây dạonọ? - Anh tổ trưởng nhìn Bồng với cặp mắt chê trách nói tiếp. - Rứa màtrung đoàn lại thông báo tuyên dương chú mi là có tinh thần cảnh giáccách mạng cao?
Bồng không trả lời anh, lẳng lặng bỏ đi ra ngoài đường.
2
Mừng được cởi trói, ngồi trước cái bàn mặt nứa ở gian ngoài trạm gác.
Lê Hường, Trưởng ban Quân báo trung đoàn, ngồi bên kia bàn, đối diện vớiem. Cuốn sổ tay và cây bút máy Parke gác trên sổ, đặt trước mặt anh. Anh nói, giọng nghiêm khắc:
- Chú mày phải khai rõ ràng, khai hết, khaicho thật. Nếu khai thành thật, chú mày sẽ được hưởng lượng khoan hồng.Nếu đối trá, quanh co, phải trả giá đắt đó. Chú mày có biết kỷ luật thời chiến đối với bọn Việt gian gián điệp là thế nào không? Xử bắn? - Anhdằn giọng, đầy hăm doạ.
Rõ ràng, giọng của anh Trưởng ban Quân báonói với Mừng không còn là giọng anh chỉ huy nói chuyện với chú em liênlạc, mà giọng một cán bộ nghiệp vụ đang lấy cung kẻ thù. Mừng lúc này đã hiểu rõ điều đó. Cả người em run rẩy đau đớn, gương mặt mệt lả, tuyệtvọng.
Thấy em vẫn ngồi lặng lẽ khóc, anh hỏi:
- Trước hết, chú mày phải nói cho tôi biết chú mày là người của cơ quan mật thám nào? Đơ-bê? Xuya-rơ-tê Phê-đe-ran? Hay Ty An ninh?
- D ạ… em là Vệ Quốc Đoàn… em không biết chi hết…
Mừng ngước gương mặt tắm nước mắt mà em chẳng buồn lau, nhìn lên Hường…
Cách đây chưa lâu, mỗi lần chạy liên lạc vô Xê-ca Một, qua lán của ban Quân báo, anh Lê Hường thường ngoắc gọi em vào hỏi em:
- Bữa ni em có việc chi phải vô Xê-ca Năm không?
Xê-ca Năm là đóng xưởng bào chế thuốc. Từ Xê-ca Một vô Xê-ca Năm phải trèoqua ba dốc núi. Mặc dầu không phải có việc chi vô đó nhưng em biết anhHường cần gì, nên em vui vẻ nói: “Có em cũng có công văn chạy vô xưởngbào chế” - “Rứa thì nhờ em tiện thể đưa giúp cái nỉ cho chị Tịnh Nhơn“.Anh móc túi áo lấy ra phong thư dán kỹ, trao cho Mừng. Anh cười, mặt hơi đỏ lên, dặn thêm: “Em nhớ đưa riêng cho chị Nhơn thôi nghe… Có mặt cácchị khác thì đừng đưa…“. “Em biết rồi! Em biết rồi!…“. Mừng nhanh nhảunói, cầm lấy phong thư dầy cộm, chạy đi.
Chị Tịnh Nhơn đẹp nhất xưởng bào chế. Hai má chị bầu bầu, lúc nào cũng đỏ hây hây như có bôi giấyhương. Mừng biết anh Hường và chị Nhơn thương nhau… Lần mô mang thư vôcho chị, chị cũng có thư gửi ra cho anh: “Nhờ em đưa giúp chị…“. Em cònbiết đưa loại thư này không giống như đưa giấy tờ công văn. Cầm công văn lỡ bị làm nhớp một chút cũng không can chi. Mà tay em lúc nào cũng kềnh càng đầy ghẻ; cầm không khéo, máu mủ ghẻ dính vô phong bì ngay. Bởivậy, thư của hai người bao giờ em cũng cẩn thận bọc trong ngọn lá vảrừng hoặc ngọn lá nón, để giữ cho phong bì được sạch. Có lần chị Nhơnhỏi: “Tại răng lúc mô cũng thấy em gói thư vô ngọn lá như gói cái bánhrứa?” - “Em sợ tay em làm nhớp mất cái thư quý của chị” - Mừng chìa haibàn tay chi chít những nốt ghẻ cái cương mủ xanh lè, và nhiều nất lởloét chảy máu.
Cặp mắt đen lay láy và trong vắt như nước suối của chị mở to nhìn em không chớp, và tự dưng láng láng nước mắt. Thấy chị khóc, em lúng túng, lo lắng, vội vã chạy xuơng dốc núi: “Em phải về không sợđi lâu đội trưởng la“.
Chừ thì anh Hường ngồi đó, hỏi em với cáigiọng như chưa hề quen em khi mô. Anh không gọi em là em như mọi khi màgọi là chú mày. “Chắc anh nghi mình là Việt gian anh mới gọi rứa. Chừ mà chị Nhơn gặp mình, chị cũng gọi mình là “chú mày” như anh Hường… Aingười ta còn thèm tử tế với cái đồ Việt gian?“. Ý nghĩ đó làm em bậtkhóc to nức nở.
Anh Hường vỗ bàn làm cuốn sổ và cây bút nhảy lên như bị kiến nhéo:
- Chú mày khai đi! Không phải khóc, mất thì giờ!
- Dạ, em chẳng biết chuyện chi mà khai… Tại vì thằng Kim… em cứ tưởng hắn là Vệ Quốc Đoàn, có ngờ mô hắn là Việt gian. Bữa đó hắn kêu đau bụng.Đội trưởng xuống sông giặt áo quần, bao tải cho cả đội, giao em ở nhàcoi nhà. Hắn nhờ em ra quán o Liên mua xôi chè. Em mà biết hắn là Việtgian đời mô em đi… có thèm xôi chè đến chết em cũng không đi. Rứa mà emdại quá, em lại bỏ nhà em đi, để hắn ở nhà một chắc. Em mua xôi về, chèchưa chín…
Lê Hường cau trán, anh vụt nhớ chi tiết này: trên sạp nứanằm lăn lóc gói xôi đỗ đen khá to, anh Thắng đã cầm ném ra bụi rậm vì sợ trong xôi có bỏ thuốc độc.
-… Em thấy thằng Kim đang ở trong buồng,coi tấm bản đồ bố phòng chiến khu. Em tức quá, la hắn: “Răng anh dám lục bản đồ mật của đội trưởng ra coi?“. Hắn nói: “Tau coi nhờ đường vô bệnh viện, để chiều tau xin đi chữa bệnh“. Cơi chi mà biết hắn là Việt gianthì em đã chạy xuống sông báo cho đội trưởng… Em thấy trên bàn có cáihộp chi đen đen mà có mặt gương ở giữa, em cầm lên coi, hỏi hắn: “Hộpchi mà đẹp ri?” - Hắn giật lại, nói là hộp đựng tiền, rồi bỏ mau vô bọccài nút lại. Hắn ôm bụng kêu đau bụng, nói em cứ ăn xôi trước, hắn vô ăn sau. Rồi hắn chạy ra nhà tiêu. Em ngồi chờ hắn vô, em nghĩ… Em nhớ cólần đội trưởng kể: Tụi Việt gian hay dùng máy chụp bóng nhỏ như cái baodiêm để chụp trộm tài liệu bí mật của kháng chiến… Rứa là em sợ quá, emnghĩ: “Hay cái hộp đựng tiền nớ là cái máy chụp bóng, hắn dùng chụp trộm bản đồ bố phóng chiến khu?“. Em liền chạy ra cầu tiêu tìm hắn, nhưnghắn đã chạy mất rồi. Cơi chi em biết hắn là Việt gian thì em đã giữ chặt cái máy đó, không cho hắn giựt lại. Em chạy đuổi theo hắn để bắt giữhắn lại. Em trèo lên ngọn cây bứa, ngó về phía dồn Sơn Quả, thấy bónghắn chạy lúp xúp đằng xa. Em liền chạy vòng đường tắt qua rú Quao, đónđầu hắn. Em chặn được hắn lại. Em đòi lại cái máy chụp bóng bắt hắn quay lui. Hắn xông vô đập em. Em chụp hòn đá, nhè túi áo hắn có đựng máychụp bóng, em xán thật mạnh. Cái máy bể tan. Hắn vật em xuống đất, xé áo em làm dây trói em lại rồi đập em tràn cả máu mũi, máu miệng. Hắn rútkhẩu súng lục dắt trong lưng quần ra, chỉ vô mặt em, bắt em phải đi theo hắn về đồn Sơn Quả. Em nằm dài ra giữa đường, giả đò đau quá không điđược. Rứa là hắn cõng em một mạch chạy về đồn Sơn Quả. Em ở lại với hắntrong đồn một đêm, nằm chung lộn với mấy thằng Bảo vệ quân. Sáng hôm sau có chiếc xe Jeep thằng Tây đen cầm máy, chở em với hắn thẳng về Huế,đến một nhà có rất nhiều lính Tây. Hắn đi vô nhà đó tự nhiên như đi vônhà hắn. Hắn nói tiếng Tây xì xồ với tụi Tây. Rồi hắn ở lại đó luôn, còn em tụi hắn đem giam vô lao Toà Khâm, nhốt em vô cái nhà nhỏ tối câm. Em ở đó được hai ngày thì cha em đến đón em. Cha em mặc đồ Tây, đeo lonquan hai, bên hông đeo khẩu súng lục ni. - Mừng chỉ khẩu súng “côn mườihai” để trên bàn. - Tay cầm roi [bad word] bò ngúc ngoắc, ngúc ngoắc.cha em dắt em ra ngồi trên xe Jeep, vặn lái chở em về nhà riêng Phú Cam. Trong nhà có dì ghẻ em. Dì ghẻ em theo đạo, trên cổ có đeo cái thập ácvới dây chuyền vàng. Trên bàn thờ có ông Chúa đứng dang tay chéo chân,với người đàn bà bồng con nít. Cha em ăn cơm thịt bò, thịt gà, ra phốmua cho em mũ dép, mấy bộ quần áo, rồi chở đi nhà thương bôi thuốc cholành ghẻ. Cha em nói: “Con đi theo Việt Minh làm chi cho khổ, ghẻ đầyngười, chỉ còn da bọc xương. Ở đây với cha, với dì ít lâu, ăn uống tẩmbổ cho lại người, chữa cho lành bệnh, rồi cha xin việc cho mà làm“. Emnói: “Con nhỏ ri biết làm việc chi?” - Cha em nói: “Rứa mà Tây họ đangcần con đó. Con mà biết nghe họ, làm việc cho họ thì con muốn chi đượcnấy“. Em hỏi: “Cha có biết chừ mạ con ở mô không?” - Cha em nói: “Mạ con bị Tây bắn chết ngoài Phò Trạch rồi” - Mừng trở sống bàn tay quệt nướcmắt, nức nở hồi lâu rồi kể tiếp: “Em ở nhà cha em được hơn mười ngày,cha em chở em đến chỗ cha em làm việc. Một cái nhà lầu ba tầng, có rấtnhiều Tây, nhiều Việt gian đi đi lại lại. Cha em đưa em vô một gianbuồng rất rộng trên vách có treo tấm bản đồ chiến khu mình, nhưng tobằng cả chiếc chiếu. Trong buồng có mấy thằng Tây, mấy thằng Việt gianxì xồ nói tiếng Tây, hút thuốc. Cha em cầm cái que gỗ tròn, dài hơn mét, chỉ lên bản đồ nói: “Con chỉ cho các quan Tây coi chỗ mô tụi Việt minhtrên Hoà Mỹ đóng các cơ quan như trung đoàn bộ, tỉnh uỷ, uỷ ban tỉnh,công binh xưởng, kho đạn, kho lúa gạo, chỗ mô bố trí các ụ súng bắn máybay, đường mô có gài mìn. Con mà chỉ trúng, các quan Tây sẽ thưởng chocon nhiều áơ quần đẹp, nhiều tiền tha hồ mà tiêu xài“. Em ngó tấm bảnđồ, giả đò như không biết, hỏi cha em: “Cái tờ giấy to đại chang ni làcái chi rứa cha?“. Mấy thằng Tây, Việt gian kêu ồ ồ. Cha em quạu mặtnói: “Thằng Kim nói mi đọc bản đồ làu làu, mi đừng có làm bộ giả đui,giả điếc? Mi mà không chỉ thì các quan đây xách cổ mi đi bắn, cha cũngkhông xin được mô“. Một thằng Việt gian đeo gương mát hỏi em: “Em đãnhìn thấy cái bản đồ giống như thế này bao giờ chưa?“. Em nói: “Dạ có,em có nhìn thấy, cấp chỉ huy em cũng có một cái giống như ri, nhưng nhỏchỉ bằng tờ báo, mà vẽ cũng không được khéo như ri. Hắn nói: “Theo lờithằng Kim thì chú mình đọc bản đồ giỏi như một sĩ quan tham mưu“. Emnói: “Anh Kim nói chọc em chớ em ở trên chiến khu mới học i tờ tờ i ti,em làm răng đọc được cái bản đồ to mà chữ nhiều bắt loạn ri“. Hắn xáchtai em hỏi: “Rứa thì em ở trên đó Việt minh sai làm những việc chi?” -“Dạ, em chạy liên lạc, đưa công văn giấy má đến các cơ quan“. - “Rứachắc chú mi phải thuộc hết đường trong chiến khu?” - Em nói: “Dạ, đườngthì tui thuộc, chạy liên lạc mà không thuộc đường, lạc bậy vô giữa rú,cọp hắn tha mất xác“. Em cứ nói huyên thuyên rứa mà coi bộ cả tụi hắncũng tin. Rứa là tụi hắn với cha em nói tiếng Tây xì xồ với nhau, rồicha em nói với em: “Thôi đi về“. Cha em vặn xe, chở em về nhà. Em ở nhàchơi không đến có hai tháng, nhiều lần em muốn trốn lên chiến khu, nhưng em không thuộc đường, sợ đi lạc bậy vô đồn Tây thì chết. Rứa rồi cáchđây năm ngày, cha em với mấy thằng Việt gian chở em lên đồn Sơn Quả. Cha em nói: “Tây họ sắp sửa đánh lên chiến khu, bắt sống hết tụi Việt minhẩn núp trên đó, đem về bắn cho dân Huế coi chơi. Con ở đây đợi lúc quânđội họ tấn công lên, thì họ gọi con đi dẫn đường. Con phải dắt chỉ chohọ những chỗ tụi Việt minh đầu sỏ ẩn núp, các chỗ để súng đạn, lúa gạo…Họ mà bắt trúng, họ sẽ thưởng cho con tiền ngàn, tiền vạn“. Em giả đòmừng rỡ nói: “Dạ, tưởng việc chi, việc dắt đường thì con làm được. Consẽ dắt họ đi khắp chiến khu để họ tha hồ mà bắt Việt minh“. Ở đồn SơnQuả, ngày mô em cũng đi ra đi vô cổng đồn cho tụi lính gác quen mặt em.Trưa hôm qua, cha em uống rượu với thằng đồn trưởng say mềm. Em chờ chocha em ngủ say, em mở bao da lấy khẩu súng lục giắt vào lưng, rồi đi racổng đồn, thằng lính gác hỏi đi mô, em nói đi hái sim chín. Trước cốngđồn có một vạt đồi sim chín rụng đầy đất, thằng gác nói: “Hái nhiềunhiều đem về cho anh ăn với nghe!“. Em dạ. Em lũi vô giữa bãi sim, quahết bãi sim đến đồi tranh. Em nhắm thẳng hướng chỉến khu em lũi. Em chạy gần thấu trạm gác thì trời đã tối được một lúc lâủ nhưng em không dámvô, em sợ các anh gác tưởng em là Việt gian, các anh bắn. Em chui vôgiữa bụi lau rậm, ngồi núp ở đó cho tới sáng em mới vô. Đầu đuôi có rứathôi anh nờ…
Gần ba mươi năm sau, tôi đến thăm đại tá về hưu LêHường, ở khu nhà tập thể bộ đội. Bên ly rượu hội ngộ, chúng tôi cùngnhắc lại những kỷ niệm một thời tráng lệ cách mạng. Tôi ngỏ ý muốn viếtlại câu chuyện về Mừng, người đồng đội tuổi thơ của tôi. Lê Hường bỗngđứng dậy mở tủ, lục lọi một hồì lâu. Anh lôi ra cuốn sổ tay dầy khoảngtrăm trang. Cuốn sổ đã long bìa, các trang giấy kẻ ca-rô ố vàng nhưnhững chiếc lá rụng, nhưng chữ viết còn khá rô vì được viết bằng thứ mực xanh đen Oa-téc-men. Từ những trang giấy ố vàng tôi ngửi thấy mùi cũxưa, mùi kỷ niệm.
Anh chìa cuốn sổ ra trước mặt tôi, bàn tay cầm cuốn sổ run run: “Đây là bản ghi tốc ký lời cung khai của Mừng hôm đó. Mấychục năm qua tôi đã đánh mất đi nhiều thứ quý giá, nhưng không hiểu saocuốn sổ này tôi vẫn còn giữ được. Nghĩ cho cùng cũng có lý do của nó. Đã từ lâu tôi cũng mơ ước viết một cái gì đó về nhưng người đồng đội nhỏtuổi, quá ngây thơ, quá trong sạch này. Và tôi cũng đã thử bắt tay viếtmột hai lần… nhưng lần nào tôi cũng bỏ dở. Bây giờ thì tôi hiểu rằng,tôi thiếu mất cái chủ yếu để thực hiện điều mơ ước. Tôi không có tàinăng, nếu cậu định viết về Mừng, tôi xin tặng cậu bản ghi tốc ký này,làm tư liệu.“. Đại tá Hường cẩn thận xé sáu trang sổ tay dày đặc nhữngchữ tốc ký, trao cho tôi. Anh hỏi: “Cậu có đọc được chữ tốc ký không?” - “Tôi chưa biết đọc, nhưng tôi sẽ học. Tôi tin là cũng không khó lắm“.
Và đoạn văn trên là tôi dịch lại gần như nguyên văn bản tốc ký của đại tá Lê Hường, lời cung khai của Mừng buổi sáng hôm đó.
Mừng kể lại một mạch, em chỉ dừng lại khi phải chùi nước mắt, và nuốt tiếngnấc nghẹn. Từ giọng kể, gương mặt và những giọt nước mắt ngắn dài chảytràn trên hai gò má trẻ thơ của em có cái gì thật đến nỗi Lê Hườngthoáng có ý nghĩ: “Hay đúng là nó bị nghi oan?“. Nhưng anh đã vội gạtngay ý nghĩ đó. Anh còn trẻ quá, mới tròn hai mươi bốn tuổi. Trong côngtác chuyên môn của anh, anh đã phải nhiều lần chạm trán và phải thườngtrực đối phó với những âm mưu vô cùng xảo trá, lắt léo của một kẻ thùhiểm độc, già dặn. Những âm mưu đó thường được che bọc bằng lừa lọc, giả trá và hơn một lần đã cho anh những bài học bằng máu, như trường hợpcái tên đàn ông giả dạng đi mua mây. Anh là người phải chịu trách nhiệmchính trong vụ này. Do đó mà anh phải luôn luôn cảnh giác với chính tình cảm và suy đoán của anh. Anh lo lắng mình bị vấp phải sai lầm mới.
Sự chân thật của Mừng đã không chọc thủng nổi lớp áo giáp phòng ngự củaanh, mà năm tháng, lớp áo giáp ấy được kinh nghiệm xương máu đan dệt dày mãi lên.
Mừng kể xong. Lê Hường còn lục vấn thêm nhiều chi tiếtkhác. Cuối cùng anh ngồi im lặng nhìn Mừng rất lâu. Ánh mắt sắc và sánglạnh của anh như muốn xuyên suốt qua người em. Ánh nói, mắt không rờigương mặt Mừng:
- Tôi đã gặp không ít những điệp viên nhà nghề, cóhạng. Nhưng chú mi mới là tên điệp viên sừng sỏ, tinh quái nhất. Nhữngâm mưu hiểm độc nguy hại cho kháng chiến lại được giấu trong cái vỏ bọcngây thơ, ngờ nghệch của con nít, thì tôi chưa gặp bao giờ. Tôi cho chúmi hai ngày để suy nghĩ, rồi chú mi phải trả lời thật rõ ràng: “Bọn Pháp giao cho chú mi nhiệm vụ gì trong việc mò lên chiến khu lần này?“. Nếuchú mi ngoan cố, nhất định sẽ bị trừng phạt theo đúng kỷ luật của thờichiến.
Thật ra, về sau này, Lê Hường mới biết, ngay cả hai tiếng điệp viên Mừng không rõ nghĩa. Em chỉ đoán lờ mờ rằng đó là một tiếng xấu xa lắm, tương tự như tiếng Việt gian. Nên Mừng chỉ khóc. Và Lê Hường chorằng đó là những giọt nước mắt giả dối của một điệp viên bẩm sinh, điệpviên thần đồng.
Lê Hường viết lệnh tống giam Mừng. Anh giao Mừng chomột chiến sĩ ở trạm gác tiền tiêu, cầm súng áp giải vào Xê-ca Sáu nơi có trại giam những binh sĩ phạm tội chờ ngày đưa ra toà án quân sự xét xử.
Ba ngày sau, đúng vào buổi sáng Lê Hường sửa soạn vào xê-ca Sáu để lấykhẩu cung Mừng lần thứ hai, bọn Pháp mở trận tấn công quy mô lên chiếnkhu Hoà Mỹ.
Giặc Pháp đã tính toán khá chính xác và xảo quyệt. Chúng tấn công Hoà Mỹ đúng vào trưa ngày chủ nhật.
Thường thường ngày chủ nhật vùng Tiền chiến khu Hoà Mỹ trở nên đông vui, tấpnập như ngày tết, ngày hội. Bộ đội, cáẩ bộ, công nhân, từ các lớp núichiến khu, suốt cả tuần sống giữa rừng rậm, kéo ra Tiền chiến khu dạochơi, ăn quà bánh, sưởi nắng, ngắm trời, ngắm sông.
Các chị ở xưởngbào chế thuốc, y tá, hộ lý, tuy không đông lắm nhưng cũng đủ làm sốngđộng, tươi mát quang cảnh nghiệt ngã của núi rừng kháng chiến. Do có các chị nên cánh đàn ông đều cố gắng ăn mặc lành lặn hơn, chải chuốt hơnngày thường.
Ngày chủ nhật, nhà Văn hoá đại chúng thường tổ chức cácbuổi sinh hoạt văn hoá, văn nghệ đó là mục hấp dẫn nhất, mà cả tuần làmviệc, chiến dấu, mọi người đều háo hức chờ đợi…
Chủ nhật hôm đó chương trình sinh hoạt nhà Văn hoá khá phong phú, đã được thông báo trước đó ba ngày.
1. Chính uỷ trung đoàn Trần Quý Hai kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ.
2. Bác sĩ Lê Khắc Thiền, Giám đốc bệnh viện chiến khu nóỉ chuyện về bệnhsốt rét, những di hại của nó và cách phòng ngừa bệnh đơn giản.
2. Anh Hồ Vi nhà thơ quen biết của trung doàn, trình bày bài thơ mới nhất củaanh: “Gửi người chín lăm” (Tên trung đoàn chủ lực tỉnh Quảng Trị).
4. Đội đồng ca của nhà Văn hoá đại chúng trình diễn bài hát: “Bình Trị Thiên khói lửa“. Sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương.
5. Công binh xưởng trình diễn vở kịch ngắn một màn: “Ông già và trái thuỷ lôi“.
Bạn đọc khi đọc đến đoạn này chắc không khỏi nghi ngờ, đánh dấu hỏi: Mộtchương trình sinh hoạt văn hoá, văn nghệ bình thường làm sao sau hơn bamươi lăm năm mà tác giả còn nhớ và kể lại khá rành mạch? Hay đó chỉ làchuyện bịa đặt, kiểu hư cấu tiểu thuyết? Người kể chuyện xin thưa: Sựnghi ngờ của bạn đọc hoàn toàn có lý. Nhưng đó là một chương trình sinhhoạt văn hoá văn nghệ gắn liền với một ngày chủ nhật khốc liệt, bi thảm, đầy máu, lửa, xác chết của đồng đội và đồng bào. Do vậy mà nó đã tạckhắc vào trí nhớ của nhiều người chứng kiến, tham dự, với một độ sâu bền mà thời gian không xoá nổi.
Cách đây không lâu, trong một buổi gặpgỡ chuyện trò với đồng chí Trần Quý Hai, lúc này là trung tướng, tôi đãnhắc lại chương trình sinh hoạt nhà Văn hoá đại chúng hôm đó. Với mụcđích kiểm tra lại trí nhớ của mình, tôi đã quên mất mục thứ hai củachương trình và đồng chí Trần Quý Hai đã bổ sung: “Anh còn nhớ là saukhi anh lên kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, anh Thiền lên nói vềbệnh sốt rét… Và đúng lúc vở kịch “Ông già và trái thuỷ lôi” mở màn thìcả chiến khu vang rền tiếng động cơ máy bay và tiếng súng bắn máy bay“.
Trong hai ngày thứ sáu và thứ bảy, tin tức của các tổ trinh sát bám đich dưới đồng bằng đưa về chiến khu dồn dập: Bọn địch ở các vị trí dọc đườngquốc lộ đã tập trung quân và xe pháo rất đông. Một quân đội cơ động ứngchiến từ Quảng Trị kéo vào đóng ở đồn đầu cầu Phò Trạch. Dự đoán củatrinh sát: Sáng ngày chủ nhật bọn giặc có thể tấn công chiến khu. Banchỉ huy trung đoàn ra lệnh cho các cơ quan và đồng bào ở Tiền chiến khuphải rút hết vào núi trong đêm thứ bảy. Ở Tiền chiến khu chỉ còn lạinhững đơn vị bộ đội có nhỉệm vụ chiến đấu bảo vệ chiến khu.
Sáng chủnhật. Cả vùng Tiền chiến khu không còn bóng một con lợn, con gà. Quán xá chỉ còn trơ lại mấy cái bàn tre. Bếp núc lạnh tanh. Những cánh cửachống lên thông thống như muốn bảo với bọn giặc: “Chúng mày cứ việc mòvào, chẳng có xơ múi gì đâu!“.
Mấy chú chồn, chú sóc chắc thấy cảnhvắng lặng khác thường, lấy làm lạ, từ trong các bụi rậm chạy ra đứngnghênh ngang ngay giữa các lối đi. Mắt chúng lơ láo, ngó ngược, ngóxuôi, đuôi xù ra cái phướn múa máy, đùa giỡn.
Tiếng rì rào của dòngsông Ô Lâu, tiếng kẽo kẹt các coọng nước quay nghe như rõ hơn, vang vọng hơn mọi ngày. Sương mù thưa loãng dần. Những tia nắng sớm màu vàng hoachạc chìu, xuyên thủng lớp sương mù, trải dài trên những bãi chông lồ ôchống quân nhảy dù trên các công sự bố trí súng phòng không, lấp lánhtrên các nòng thép mười ba ly hai, mười hai ly bảy trên các giao thônghào lố nhố bóng lính, mũ xanh rờn lá nguỵ trang…
Nắng sớm tắm vàngcác tán cây đại thụ dựng cao vút trên sườn núi. Trong những vòm lá rậmchóp cây, thấp thoáng ẩn hiện những thân hình nhỏ bé, thoảng nhìn có thể tưởng lầm là những chú vượn, chú khỉ. Đó chính là cái đài quan sát docác tổ Thiếu niên trinh sát phụ trách.
Cũng giống như sương mù, không khí căng thẳng, hồi hộp, lo âu, phấp phỏng về một trận tấn công quy môcủa giặc nghiền nát chiến khu, cứ thưa loãng dần cho đến lúc tan biếnhẳn, khi mặt trời càng lên cao. Cả chiến khu tràn ngập màu nắng tuyệtđẹp của một ngày chủ nhật tuyệt đẹp.
Cả chiến khu bắt đầu động đậy,nhấp nhổm, vội vàng, muốn tranh thủ những giờ bị mất oan của một ngàychủ nhật hứa hẹn nhiều sinh hoạt vui chơi hấp dẫn. Có một quy luật màđứa trẻ lên ba ở vùng giặc chiếm đóng cũng biết là bọn giặc chỉ tấn công càn quét vào lúc rạng sáng, muộn lắm là khoảng tám, chín giờ. Sau đó là coi như an toàn. Nên chẳng cần lệnh báo yên, người trong núi bắt đầu đổ ra Tiền chiến khu. Dẫn đầu là các o, các chú, chủ các quán hàng. Tốpnăm, tốp ba gồng gánh, tay xách nách mang, cười nói ầm ĩ, dọc các lốimòn giữa rừng cây thấp chạy men theo bìa núi.
Hai chị quần xắn quá gối, gánh một con heo to tướng, cười nói bô bô:
- Tui biết ngay mà? Các ông cứ đoán già đoán non rứa, chớ tụi Tây động mả động mồ chi mà đi tấn công chiến khu vào ngày chủ nhật? Rứa thì ai đinhảy đầm, đi nhà thờ cầu Chúa cho tụi hắn?
- Không nhảy đầm, không đi cầu Chúa, tụi hắn tiếc đứt ruột khác chi chị em mình mất buôn, mất bán!
Người từ trong các lớp núi kéo ra Hoà Mỹ mỗi lúc một đông.
Dọc bờ sông, các giao thông hào, các ụ súng phòng không, các chiến sĩ trựcchiến cũng bắt đầu nhấp nhổm. Người nhảy lên bờ công sự ngồi, người vấnthuốc hút, người nghếch mặt, mắt hấp háy ngó theo mấy o bào chế, y tá,cười nói yểu điệu kéo về nhà Văn hoá đại chúng. Vừa lúc đó, Lê Thắng -đội trưởng trinh sát đi ngang qua. Bộ áo quần vải sợi đôi rách và bê bết bùn đất, cái mũ nan bọc vải dù bẹp dúm dó cắm mấy cành lá nguỵ trang,mắt thâm quầng vì mất ngủ. Suốt đêm qua, anh đôn đáo suốt dọc chiến khu, kiểm tra lại mạng lưới trinh sát.
Theo sát gót anh là Bồng-da-rắn.Trông em cũng lấm lem mệt mỏi không kém đội trưởng. Mấy chiến sĩ ở đạiđội liên pháo đang ngồi trên bờ công sự hút thuốc, nhìn thấy hai anh em, liền nói kháy:
- Ông trùm trinh sát ơi! Tây lên thấu mô rồi để anh em còn chuẩn bị nghênh chiến?
- Tin trinh trinh sát thì có ngày đổ thóc giống mà ăn.
Anh Thắng cứ im lặng bước, nhưng Bồng đốp chát lại ngay:
- Tin lính bắn máy bay thì có ngày ăn bom Tây no bụng! - và Bồng sẵn sàng co giò chạy nếu các anh rượt đuổi.
”Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu.… “. Một giọng hát cao vút bỗng cất lên giữa những vồng sắn cao lút đầu người.
Tất cả chưa kịp cãi lộn nhau cùng quay lại nhìn. Một cô gái khoảng mườichín, hai mươi tuổi, áo quần lành lặn nhưng xộc xệch, đầu đội vành hoamua, hoa sim, tay cầm một nhành hoa bãi hoãi màu nắng sớm, vừa đi vừaquay nhành hoa, vừa hát. Gương mặt cô xanh xao, cặp mắt mở to, lóe sángánh ngây dại.
”Dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu“. Cô ngoảnh mặt vềphía núi xanh, cười lên khanh khách: “Ha ha ha! Núi rừng bao la sầu đẹpquá! Đẹp quá! Ha ha ha…“.
Bồng-da-rắn chạy đến bên cô gái, nói giọng dịu dàng, van vỉ:
- Chị Hoài Trinh ơi, chị đi vào núi nghỉ ngơi cho khỏe. Chị hát chi hát hoài rứa, làm em đứt ruột…
- Ha ha ha! Hoàng tử của ta! Hoàng tử của ta! Ta ban cho chàng bông hoathần làm ra hạnh phúc…! - Chị cầm nhành hoa bãi hoãi quệt quệt hai bênmá Bồng, rồi cắm vào túi áo Bồng. Bồng đỏ mặt, quay lại, lầm lũi bỏ đi.
Cô Hoài Trinh ở xưởng bào chế thuốc trước đây được coi là hoa khôi củachiến khu, sốt rét nhiều quá đã phát điên từ mấy tháng nay. Cô cứ đilang thang khắp chiến khu mà hát như vậy.
Nhà Văn hoá đại chúng đãchật ních người. Anh Hinh tỉnh đội phó, trưởng ban nhà Văn hoá lên tuyên bố buổi sinh hoạt thường kỳ tuy hôm nay bắt đầu hơi muộn nhưng hứa hẹnsẽ rất thú vị, hấp dẫn. Chính uỷ Trần Quý Hai lên kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ với giọng Quảng Ngãi quen thuộc, đậm đà mộc mạc.
Cáchnhà Văn hoá đại chúng mấy nương sắn là dãy quán hàng. Lửa bếp quán nàocũng cháy rừng rực. Gió bay mùi xào bò, cháo bánh canh, nước lèo, đếntận đây. Khán giả đang chăm chú nghe bác sĩ Lê Khắc Thiền giảng giải vềcon muỗi Anôphen. Hiệu Coiffeur de luxe của anh Đỡm kẻ vào người ra tấpnập. Anh Đỡm tay lược, tay tông-đơ ngự trên cái ghế cành cây như Bảo Đại ngự trên ngai vàng, hai cẳng chân xỏ trong bao bố chống ruồi và con bumắt.
Bên kia đường mụ Táo bán hàng vừa ngắm nguýt đôi câu đối trên cột bương hiệu Coiffeur de luxe.
- Rứa mà cũng đòi đối đáp! Nghe cục súc như đá quăng!
Mười một giờ mười sáu phút.
Trên đài quan sát phíaTây Nam chiến khu do một tổ Thiếu niên trinh sát phụtrách, tiếng kẻng báo động máy bay bỗng dồn dập vang lên. Tiếng kẻng chỉ một loáng đã lan rộng cả Tiền chiến khu. Bầu trời chiến khu vang ầmtiếng động cơ máy bay. Sáu chiếc khu trục thành đội hình chữ V, từ phíasân bay Phú Bài vèo vèo lao đến. Các cỡ đạn đại liên, trọng liên, rạchtrời đón chúng. Chỉ mấy phút sau, cả vùng trời Hoà Mỹ chìm ngập trongtiếng bom, tiếng súng.
Tiếng bom, súng vừa lặn được vài phút, thì từphía biển, mười chiếc máy bay vận tải Đa-cô-ta thành một hàng ngang, lùi lũi bay đến chiếm lĩnh vùng trời chiến khu. Vượt qua khỏi sông Ô Lâu,từ bụng máy bay bung ra hàng trăm chiếc dù trắng, xanh, vàng, đỏ, nhưnhững tai nấm độc khổng lồ, ngả nghiêng giữa bầu trời. Chúng lớn dần lớn dần cho đến lúc nhìn rõ những tên giặc đen, trắng đeo lủng lẳng dướinhững chiếc dù.
- Tây nhảy dù! Tây nhảy dù!
Tiếng gào thét, hô hoán dậy lên khắp nơi.
Buổi sáng thanh bình của chiến khu Hoà Mỹ đã kết thúc trong lửa và máu, vớihàng trăm xác chết của đồng bào, cán bộ, bộ đội bị bom, quân nhảy dù vàquân bộ tràn qua sông Ô Lâu, tàn sát man rợ chưa từng thấy. Và nhữngngười chứng kiến cảnh tàn sát ấy rõ ràng hơn hết là các em trong độiThiếu niên trinh sát trên các đài quan sát của chiến khu.
Suốt một tuần, báo chí của địch ở Huế đưa tin dồn dập, rầm rộ về trận đại thắng của quân đội Pháp tại chiến khu Hoà Mỹ.
Với những dòng chữ tít lớn chạy dài trên các trang nhất:
”Chiến khu Hoà Mỹ của Việt minh Thừa Thiên bị dìm trong một biển lửa và khói“.
”Dinh luỹ đầu não của Việt minh Thừa Thiên đã bị nghiền nát và xoá sạch khỏi vùng núi Hoà Mỹ“.
”Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu, Chính uỷ Trần Quý Hai đã chết trong đám loạn quân“.
”Xác chết của binh sĩ trung đoàn 101 lấp kín dòng sông Ô Lâu v.v…”
Hàng ngày, cả chục chiếc ô tô chở đầy những người áo quần rách rưới, hai tay bị trói, cùng với súng đạn, chạy vòng quanh thành phố. Dẫn đầu đoàn ôtô là chiếc xe Jeep trống kèn inh ỏi, loa phóng thanh oang oang thànhphố.
”Đây là quân lính Việt minh bị bắt tại chiến khu Hoà Mỹ và một phần rất nhỏ số súng đạn thu được của chúng“.
Nhân dân Huế chẳng còn lạ gì, miệng lưỡi láo thiên láo địa của bọn giặc.Nhưng chúng cứ ra rả suốt ngày bên tai như vậy, làm đồng bào không khỏihoang mang, lo lắng.
Sự thật, sau một tuần đánh phá, bọn giặc cũngchỉ lởn vởn được bên ngoài làng Hoà Mỹ. Mỗi ngày chúng mở cả chục đợttấn công, có máy bay, đại bác yểm trợ, vẫn không vượt nổi dải rừng câythấp trước thềm núi chiến khu.
Ban đêm chúng co cụm lại trong cáccông sự đào đắp vội vàng hai bên bờ sông Ô Lâu. Chúng đặt đại bác trêncác đỉnh đồi bên kia sông, bắn suốt ngày đêm vào các lớp núi xanh. Bầutrời chiến khu như cái bể rèn khổng lồ với hàng ngàn thanh sắt nung đỏnhúng vào nước kêu xèo xèo. Đó là tiếng rít của đạn moóc-chê, đại bác và hàng trăm quả bom lớn nhỏ dội xuống các sườn núi, khe suối.
Đêm,quân ta từ trong núi tổ chức các đợt phản kích đánh vào các toán giặc co cụm dọc bờ sông, mặt khác, tổ chức thu lượm thi hài chiến sĩ, đồng bàobị giặt giết trong hôm chúng nhảy dù, đưa vào núi chôn cất.
Trong sốnày, có xác chết đã in vào trí nhớ các đội viên thiếu niên trinh sát như sắt nung đỏ. Đó là anh Đỡm thợ cắt tóc anh chết nửa nằm nửa ngồi, bịđạn tiểu liên bắn nát mặt.
Hai cẳng chân đầy mụn lở loét vẫn xỏ trong cái bao tải, một tay anh níu sợi dây da đóng vào cột anh vẫn dùng để liếc dao.
Hình như anh định chạy nhưng bị vướng lùng bùng trong cái bao tải nên ngãxuống. Anh níu sợi dây da gượng đứng dậy thì bọn giặc nhảy dù xông vàobắn chết.
Hoài Trinh cô nhân viên bào chế, điên, bị bọn giặc lột trần truồng, hãm hiếp, rồi dùng lưỡi lê xăm nát mình. Đầu cô vẫn đội cáivòng hoa kết bằng những bông hoa sim, hoa mua.
Trong túi áo của Bồngvẫn còn nguyên nhành hoa chạc chìu cô tặng em trước lúc bị giặc giết chỉ mấy tiếng đồng hồ. Đã một tuần nay rồi, mỗi lần bất chợt ngửi thấy mùihoa rừng úa héo dâng lên từ ngực áo, hai mắt em trở nên đỏ ngầu, giàngiụa nước mắt.