Ngày tháng tư, trong không khí tràn ngập mùi vị ẩm ướt.
Từ trong bùn đất ở sân sau điện Phụng Thiên có không ít kiến đen chui ra, hẳn là trời sắp mưa.
Ngự thư phòng truyền đến tiếng ho khan kịch liệt.
Hoàng đế vịn vào sạp, đến khi ho ra một ngụm máu mới ngừng lại, chàng mệt mỏi ngửa người, thân thể nặng nề chìm vào trong đệm, nhìn vào khoảng không trước mặt, không nhúc nhích.
Từ khi biết Phó Nhiêu qua đời, chàng không ăn không ngủ đã tròn hai ngày, hốc mắt lõm xuống, khóe mắt khô khốc hằn lên tơ máu, trông già đi mấy tuổi.
Lãnh Hoài An quỳ ở một bên, nước mắt lưng tròng, tay cầm khăn ướt không ngừng thấm ướt đôi môi khô nứt cho chàng, khuyên chàng uống chút nước, ăn chút cháo, nhưng Hoàng đế vẫn thờ ơ.
Cổ họng khô khốc không phát ra được dù là một chút âm thanh, đầu và các cơ đều nặng trĩu, chàng ngây ngốc giống như đã mất đi ý thức.
Ngày đó tỉnh lại, chàng truyền Lưu Đồng vào điện trước tiên, để cho hắn đích thân đến Đàm Châu tra án, sống phải thấy người, chết phải thấy xác.
Chàng không tin, chàng thật sự không tin.
Đây hẳn là Phó Nhiêu đùa giỡn với chàng.
Nàng giỏi giang như nậy, thông minh như vậy, nhất định là sợ chàng đuổi theo nàng không buông, cố ý làm ve sầu thoát xác(*), nhất định là như vậy.
(*) Ve sầu thoát xác: Nghĩa đen chỉ con ve sầu phá vỡ vỏ bọc để chui ra ngoài. Trong quân sự, kế này chỉ việc tạo bề ngoài giả nhằm khiến quân địch hoang mang, án binh bất động, còn bản thân thoát ra an toàn.
Từ khi nàng rời đi, suốt cả tháng tư, chàng buộc mình không nghĩ đến nàng nữa, tự nói với chính mình rằng chàng còn có rất nhiều nữ nhân, chàng không thiếu người như Phó Nhiêu, lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác, che giấu việc chàng không thể buông bỏ. Chàng tự cho rằng mình ngụy trang rất khá, nhưng tới khi thực sự nghe được tin Phó Nhiêu qua đời thì ngực quặn đau đến hít thở không thông.
Hai ngày nay, chàng bị sự đau khổ và hối hận cực độ dày vò, trong đầu hồi tưởng vô số lần, nếu chàng sớm bóp chết phế hậu thì bí mật của nàng sẽ không bị tiết lộ, nếu chàng ngăn cản Thái Hoàng Thái Hậu xuất cung thì sẽ không có chuyện này.
Như vậy, nàng bây giờ đang ở cung Khôn Ninh của chàng dưỡng thai, chỉ thêm hai tháng nữa thôi hẳn là sinh rồi.
Một tháng sau, Lưu Đồng trở về, mang theo tất cả chứng cứ về việc Phó Nhiêu ở Đàm Châu, hồ sơ bệnh án về chẩn đoán và điều trị của đại phu trước khi chết, lời khai của một số nhân chứng, một ngôi mộ chôn di vật(*), và đủ loại công văn hồ sơ, tạm tạm cũng đầy cả một hộp.
(*)衣冠冢: Ngôi mộ trong đó là quần áo và các vật dụng khác của người quá cố được chôn thay vì thi thể. Điều này là do thi thể của người quá cố không thể tìm thấy hoặc đã được chôn cất ở nơi khác.
“Bởi vì nàng qua đời vào cuối trận dịch, quan lại địa phương không dám bất cẩn nên hỏa táng thi thể của nàng. Lúc Hoắc Sơn biết được đã vội vã chạy tới nhưng tới thì đã muộn...” Lưu Đồng quỳ trên mặt đất thỉnh tội, bôn ba không kể ngày đêm khiến cho vị Cẩm Y vệ Đô chỉ huy sứ này toát ra vài phần mệt mỏi.
Hoàng đế đặt tay lên hộp gấm nhưng vẫn chưa mở ra, hốc mắt hãm sâu, nặng nề nhìn chằm chằm ánh mặt trời ngoài cửa sổ, rất lâu cũng không nói một lời.
Đêm đến, chàng ôm di vật của Phó Nhiêu, ngồi nguyên một đêm ở Ngự thư phòng. Ngày hôm sau, chàng tuyên Phó Khôn vào cung.
Người thiếu niên mặc áo gấm, đeo thắt lưng ngọc, phong thái uy nghiêm quỳ ở Ngự thư phòng, bình tĩnh hành lễ.
Hoàng đế đỡ ngự án, ánh mắt chua xót nhìn chằm chằm Phó Khôn, im lặng một lúc lâu mới vẫy tay với cậu, ý bảo cậu tới gần một chút.
Phó Khôn nhấc vạt áo lên, khom người quỳ ở một bên ngự án của chàng, người thiếu niên đánh bạo đánh giá Hoàng đế, chỉ thấy vẻ mặt sâu xa, thần sắc bi thương cùng một đôi mắt trầm tĩnh, đen như mực đến nỗi không một ánh sáng nào có thể tạo ra một gợn sóng khi chiếu vào.
Chính là do buồn lòng quá mức.
Phó Khôn chậm rãi cụp mắt xuống, trong lòng cũng sinh ra vài phần phức tạp.
Hoàng đế im lặng hồi lâu, khàn giọng mở miệng: “Phó Khôn, tỷ tỷ ngươi…đã hy sinh…”
Ngoài dự liệu của chàng, Phó Khôn không hề ngạc nhiên, chỉ là ánh mắt ảm đạm đi một chút.
“Ngươi đã biết rồi sao?” Hoàng đế chua xót hỏi, đôi mắt đen nhánh nặng nề nhìn cậu.
Phó Khôn ngước mắt, kìm nén sự đau đớn trong hốc mắt, gật đầu nói: “Bệ hạ, ngày hai tháng hai, ngày Rồng ngẩng đầu(*), Hạ thái y đích thân đến phủ giải thích toàn bộ chuyện tỷ tỷ lâm chung, chỉ là thần lo cho sức khỏe của mẫu thân, đến nay không dám nói rõ, chỉ nói cho mẫu thân rằng tỷ tỷ muốn đi mấy tỉnh ở Giang Nam tuần tra, e là phải qua một hai năm mới hồi kinh...”
(*) Ngày Rồng ngẩng đầu: là ngày mùng 2 tháng 2 âm lịch, còn gọi là Lễ cày xuân, Lễ trồng trọt, Lễ rồng xanh, Lễ hội rồng xuân… là một lễ hội dân gian truyền thống của Trung Quốc.
Hoàng đế nhắm mắt lại, tay chống trán im lặng thật lâu.
“Phó Khôn, ngươi có lẽ không biết, tỷ tỷ của ngươi mang thai con của trẫm, là trẫm không bảo vệ nàng tốt, là trẫm có lỗi với Phó gia các ngươi…”
Mỗi một chữ chàng nói là một lần Phó Khôn khổ sở trong lòng, có thể nhìn ra được rằng đối với cái chết của tỷ tỷ, Hoàng đế không thể nào buông bỏ. Phó Khôn không khỏi nghĩ, vị đế vương từng đi chinh chiến này chắc chắn là thật lòng yêu tỷ tỷ.
Cậu thở dài, chậm rãi khuyên nhủ: “Bệ hạ, tỷ tỷ chết có ý nghĩa, trong lòng không oán không hận, linh hồn tỷ tỷ trên trời nhìn thấy ngài như vậy sẽ vô cùng khổ sở, bệ hạ, ngài hãy vui lên một chút đi...”
Một hàng nước mắt chua xót từ khóe mắt Hoàng đế trượt ra, chàng không muốn để cho người thiếu niên nhìn thấy chàng yếu đuối, lập tức gạt đi không một chút dấu vết, quay mặt đi, cao giọng hướng ra ngoài phân phó.
“Tuyên Đại Hoàng tử.”
Trong lúc chờ đợi, Hoàng đế hỏi bài tập của Phó Khôn ở Quốc Tử Giám, Phó Khôn trả lời từng cái một, Hoàng đế biết được thiếu niên này biến nỗi đau thành động lực, ngày càng chăm chỉ học hành, trong lòng vô cùng tán thưởng.
“Tỷ tỷ ngươi chắc chắn tự hào về ngươi.”
Giây lát, Đại Hoàng tử Bùi Trừng thỉnh kiến, Hoàng đế chỉ vào Phó Khôn và Bùi Trừng nói:
“Hai người các con tuổi xấp xỉ, Phó Khôn lớn hơn con một tháng...” Vốn là muốn Bùi Trừng coi Phó Khôn là huynh trưởng nhưng lại nghĩ đến mối quan hệ của mình với Phó Nhiêu liền thay đổi lời nói: “Cậu ấy so với con học thức uyên bác hơn, con nên coi cậu ấy là bạn bè thân thích…”
Bùi Trừng đương nhiên coi Phó Khôn là bạn, cậu quanh năm bị ốm đau tra tấn, thân thể không cao lớn bằng Phó Khôn, cũng không ung dung tự tin như Phó Khôn. Nghe Hoàng đế nói xong, cậu chủ động chắp tay với Phó Khôn: “Sau này xin Phó công tử chỉ giáo nhiều hơn.”
Phó Khôn vội vàng hành đại lễ với Bùi Trừng: “Sao điện hạ lại nói vậy, phải là điện hạ sai bảo thần mới đúng.”
Bùi Trừng cười chua chát: “Mạng của ta được tỷ tỷ ngươi cứu, chúng ta không cần khách khí.”
Hai vị thiếu niên nhìn nhau cười.
Hoàng đế hết sức vui mừng, ban cho Phó Khôn lệnh bài, để cậu làm bạn cùng học với Đại Hoàng tử, cho phép ra vào cung cấm.
Mấy ngày sau, Hoàng đế lại thăng Lễ bộ Thượng thư Hàn Huyền làm Thái phó, chính thức lệnh cho ông ấy thiết lập giáo đàn trong cung, chuyên trách dạy cho Đại Hoàng tử, Tam Hoàng tử và Phó Khôn.
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
Triều đình và dân chúng nghe tin thì đều biết vị thiếu gia Phó gia này được Hoàng đế coi trọng, rất nhiều đại thần đỏ mắt, đưa ra dị nghị nhưng đều bị Trình Khang bác bỏ.
Tin Phó Nhiêu qua đời mặc dù chưa công bố, nhưng trong lòng một số ít trọng thần hiểu rõ, Trình Khang vẫn bất mãn với việc Hoàng đế chưa từng phong thưởng Phó Nhiêu, lần này thấy Hoàng đế ưu đãi Phó Khôn, dĩ nhiên ngộ ra dụng ý của vị đế vương này, cho cá chi bằng dạy cách câu cá, Hoàng đế đây là muốn bồi dưỡng Phó Khôn, an ủi linh hồn Phó Nhiêu trên thiên đường.
Về sau, triều chính thanh minh, triều thần trên dưới một lòng, không còn đại loạn, duy chỉ có biên giới thường thường bị Địch Nhung xâm phạm, Hoàng đế cân nhắc nhiều lần, đem triều chính giao cho mấy vị đại thần thân cận rồi mang theo vài tướng lĩnh thân tín tới biên giới phía Bắc, củng cố phòng tuyến biên giới dài hơn một nghìn dặm.
Chàng trở về vài lần trong ba năm.
Ba năm này, triều trung do Tư lễ giám, Nội các, viện Đốc Sát cùng các khoa kiềm chế lẫn nhau, mỗi khi có quyết sách trọng đại, Nội các và Tư lễ giám đề đốc cùng nhau bàn bạc sau đó khẩn trương đưa tấu chương tới Hoàng đế, nếu như không có sai sót Hoàng đế chỉ phúc đáp “Được”, hoặc có lựa chọn thì chỉ ra chỗ sai, lại có Cẩm Y vệ thăm dò cơ mật, âm thầm giám sát triều đình, trong vòng ba năm cũng chưa từng xảy ra đại loạn.
Hoàng đế gần như mỗi nửa năm hồi kinh một lần, thời gian ở lại không lâu, chàng đã nhiều năm không ngủ lại hậu cung, dần dà, chàng liền nảy ra ý đưa những phi tử chưa từng được thị tẩm về các phủ, thêm trợ cấp cho phép xuất giá, những cung phi khác chưa từng thai nghén sinh con nếu muốn xuất cung, Hoàng đế liền để Tôn Chiêu thay đổi diện mạo và tái giá, tất cả đều được ban thưởng hậu hĩnh.
Đến cuối cùng, trong cung chỉ còn lại có mấy vị cung phi cao quý dưỡng dục con nối dõi. Còn một số ít phi tử không nơi nương tựa, cũng không có ý định lập gia đình, các nàng không còn trẻ, dự định dưỡng lão trong cung. Hoàng đế dặn dò Tôn Chiêu và Ngu phi, không được khắt khe cũng không được cẩu thả, như vậy hậu cung rất yên bình.
Duy chỉ có Lý phi đến nay bị cấm ở cung Phỉ Thúy, không được ra ngoài, đại thần trong triều cũng từng dâng thư thỉnh cầu bỏ lệnh cấm nhưng đều bị Hoàng đế bác bỏ.
Sau khi nghe tin Phó Nhiêu qua đời, Hoàng đế đã đến tế lễ tại miếu Thiên Địa, cầu xin thần linh bảo vệ nhà Tấn, đồng thời đổi tước hiệu thành Càn Ninh, tức là tước hiệu của Phó Nhiêu.
Mấy năm nay Hoàng đế chưa từng nhắc tới Phó Nhiêu, nhưng Lãnh Hoài An biết, chàng cũng chưa từng quên.
Thời gian lặng lẽ lướt qua đến đầu tháng tư năm Càn Ninh thứ ba.
Một tháng trước Hoàng đế dẫn quân đi chiến đấu ở Tây Bắc đánh bại liên quân Tây Vực, mở rộng lãnh thổ của nhà Tấn về phía Tây ước chừng năm trăm dặm, lãnh thổ quốc gia rộng lớn trước nay chưa từng có. Vì thành tựu vô song, triều đình và dân chúng dâng thư thỉnh cầu lên Thái Sơn phong thiện(*), từ xưa phong thiện chính là hành động hao tài tốn của. Tấu chương đưa tới biên quan, Hoàng đế nâng cằm cười nói, không cần phong thiện, chỉ tạo một thuyền rồng, vào mùng năm tháng năm, ngồi thuyền tế lễ về phía Đông, hành động này vừa có thể thể hiện công lao với trời đất vừa có thể xóa bớt lễ nghi rườm rà, giảm bớt hao phí, quần thần cũng tán thành. Hoàng đế ở Tây Bắc bận rộn việc quân không trở về được nên Đại Hoàng tử cùng ba vị đại thần Nội các thay mặt làm.
(*) phong thiện: thời xưa chỉ việc vua chúa lên núi Thái Sơn cúng tế trời đất.
Việc này giao cho Hộ bộ và Công bộ cùng giải quyết.
Đương nhiệm Hộ bộ Thượng thư là thứ phụ Nội các Lý Duy Trung, Lý Duy Trung cực giỏi quản lý tài sản, lại là cậu ruột của Tam Hoàng tử, là người có uy tín lớn trong triều đình và dân chúng. Nạo vét kênh đào từ Dương Châu thẳng đến Thông Châu chính là đề nghị của hắn. Hành động này nối liền kinh thành với vùng đất thuế Giang Nam, giải quyết khó khăn của việc vận chuyển bằng đường thủy, mang lại lợi ích cho vùng ven bờ Từ Châu và Thanh Châu, rất được triều đình và dân chúng ca ngợi.
Người phụ trách đốc chế thuyền rồng là người giám sát xây dựng Công bộ, Lỗ Chi Dự được xưng là Lỗ Ban đương thời. Cách mùng năm tháng năm chỉ còn lại có hai mươi ngày, hắn ta vô cùng gấp gáp sai bảo thợ thủ công ngày đêm đẩy nhanh tốc độ làm việc, nhưng sự cố lại xảy ra vào lúc này.
Đêm mùng bốn tháng tư, trời đổ mưa to, thuyền rồng đã làm xong một nửa, nhưng sống tàu lại đột nhiên gãy lìa, làm cho thân tàu nứt rạn, hơn trăm thợ thủ công rơi xuống nước làm chết bốn người, người bị thương nhiều vô số kể, vụ án này làm khiếp sợ cả triều đình và dân chúng, triều đình lập tức phái Hình bộ Thị lang Lư Khứ Bệnh cùng Thiêm đô Ngự sử viện Đốc Sát Tạ Tương tới Thông Châu điều tra án.
Tống Minh Nguyệt đương nhiệm đốc phủ Thông Châu ngay lập tức triệu tập y sĩ đến hiện trường cứu người.
Phía đông bờ sông Thông Châu, dưới một sườn dốc cao có mấy căn lều trại cực lớn, trong lều chật kín người, những tiếng kêu đau đớn vang lên, y quan và dược quan đi qua đi lại tuy là vội vàng nhưng vẫn ngay ngắn có trật tự.
Đầu giờ trưa ở dưới viên môn cách đó không xa, một thiếu niên thanh tú ước chừng mười bảy mười tám tuổi dẫn một chiếc xe la dừng ở cửa, nàng lưng đeo một túi thuốc, mặc một thân áo vải đã cũ, giơ tay lau đi mồ hôi trên trán, đi tới trước bàn làm việc của bộ phận y tế, chỉ vào xe la đậu cách đó không xa nói:
“Đại nhân, ta nghe nói nơi này xảy ra sự cố, thương vong khá nghiêm trọng, ta lo dược liệu không đủ nên gửi chút thuốc cầm máu tới, kính xin ngài nhận lấy.”
Vị tiểu lại kia nghe vậy không kìm được vui mừng, vội vàng buông bút mực xuống, đánh giá người vừa tới. Người thiếu niên trước mặt ăn mặc cực kỳ giản dị, mặt mày thanh tú, sắc mặt vui vẻ.
“Trước mắt đúng là đang thiếu những thứ này, đây thực sự là một sự trợ giúp kịp thời. Nào, ngươi giúp ta dỡ dược liệu xuống rồi đăng ký vào danh sách, sau này ta sẽ tâu với triều đình ban thưởng cho ngươi.”
“Không cần làm vậy...” Phó Nhiêu từ chối cười cười, theo hắn nâng mấy rương dược liệu xuống rồi dặn dò bảo quản sử dụng như thế nào, tiểu lại nghe vậy liền biết nàng là người trong nghề, nghiêm túc đánh giá nàng một chút rồi cười híp mắt hỏi: “Nhìn tiểu công tử có vẻ khá thông thạo y thuật, hiện tại y viện chúng ta thiếu người, hay là tiểu công tử giúp chúng ta một chút?”
Phó Nhiêu quay đầu nhìn về phía lều trại đang mở rộng, trời tháng tư cực kỳ oi bức, đủ loại người bị thương nằm trên những chiếc giường bệnh được sắp xếp ngay ngắn, tiếng ai oán khắp nơi, dường như là làm không hết việc.
“Trong nhà ta còn có già trẻ phải chăm sóc, ta chỉ có thể giúp một chút việc nhỏ, buổi tối vẫn phải quay về nhà.”
Nàng lưng đeo túi thuốc bước vào lều, nhìn chỗ nào thiếu người thì đi vào chỗ đó, hai canh giờ trôi qua mà không nghỉ ngơi một khắc khiến cả người mồ hôi đầm đìa.
Mắt thấy sắc trời sắp tối, hình như trời sắp mưa, nàng lưng đeo túi thuốc cáo từ, đang bước ra mấy bước, bỗng nhiên nghe được phía sau truyền đến một giọng nói quen thuộc:
“Người bị thương chữa trị thế nào rồi? Y dược có đủ không? Còn cần điều người từ trong thành tới không?”
Phó Nhiêu dừng bước, xê bước chân xoay người, chỉ thấy thân hình người tới tuấn tú cao ngất, mặc áo bào màu đỏ thẫm, khuôn mặt trong như ngọc, lông mày hơi có chút kinh hãi, không ai khác chính là đương kim Thiêm đô Ngự sử Tạ Tương.
Bạn đang đọc bản chuyển ngữ thuộc về allinvn.net
Cách hơn ba năm gặp lại cố nhân, Phó Nhiêu gần như bật khóc, bước chân như bị đóng đinh ở cửa lều, làm thế nào cũng không nhúc nhích được, nàng mặc dù không ở kinh thành nhưng vẫn có thể dùng nhiều cách gửi thư cho Phó Khôn, thư của Phó Khôn nói cho nàng biết, Tạ Tương đối xử với cậu vô cùng tốt, ngày lễ ngày tết luôn có xe lớn lễ nghi mang tới Phó gia.
Sau lưng Tạ Tương có một đống quan viên đi theo, đi đầu chính là Tống Minh Nguyệt, đoàn người nhìn thẳng về phía lều trại mà đi tới.
Tạ Tương căn bản không liếc về phía Phó Nhiêu, chỉ là khi rảo bước tiến đến lều trại, một bóng dáng quen thuộc làm rung chuyển tầm nhìn của y, y lập tức dừng bước, nhìn về hướng đó, chỉ thấy một thiếu niên yếu đuối lưng đeo hành lý, dần dần đi xa.
Phó Nhiêu trên đường gặp mưa to như trút nước, rơi vào đường cùng nên tìm một sơn miếu cũ nát để trú lại, nơi này cách thành không tính là gần, không thể cứ cố mà quay về được, tối nay e là phải ngủ lại ở đây.
May mà Bổn Bổn có sư phụ và sư mẫu chăm sóc nên nàng cũng không lo lắng.
Phó Nhiêu cởi áo tơi che mưa xuống, đặt ở góc, sơn miếu có hai gian, bên ngoài có một nhà chính mở rộng, bên trong có một cái miếu nhỏ, chính giữa khắc một võ tướng oai nghiêm, tay cầm một cuộn giấy, chân giữ giáo, tuy là lớp sơn bên ngoài bị tróc ra nhưng hình dáng lại rất thật.
Thì ra là một cái miếu Quan Công.
Phó Nhiêu tìm một nơi sạch sẽ, buông hành lý xuống rồi nhặt củi khô xung quanh túm lại một chỗ, dự định nhóm lửa hong khô vạt áo ướt sũng. Nàng mang theo túi nước và lương khô bên người nên ở đây một đêm cũng không sao.
Một lát sau, bên ngoài truyền đến tiếng động, Phó Nhiêu hoảng sợ vội vàng nghiêng đầu nhìn lại, chỉ thấy trong mưa bụi mông lung có một nam tử áo xanh cao ráo tuấn tú cầm ô giấy dầu vào miếu tránh mưa, khuôn mặt chàng bình thường nhưng lại có khí chất cực kỳ xuất chúng.
Chàng đứng ở cửa, đem ô giấy dầu đặt sang một bên, chậm rãi giũ nước mưa trên áo bào và lưng rồi ngước mắt nhìn màn mưa đầy trời.
Thân ảnh đứng sừng sững như núi, phong thái vô cùng độc lập.
Chẳng biết tại sao, Phó Nhiêu cứ nhìn chàng như vậy, nhìn đến ngây người.
Người đàn ông này rõ ràng nàng chưa từng gặp qua, nhưng trên người chàng không hiểu sao có chút đặc tính hấp dẫn nàng, trong khoảnh khắc chàng xoay người, Phó Nhiêu rùng mình lập tức tránh đi tầm mắt của chàng.
Đối phương cũng đúng lúc phát hiện ra nàng, hơi sửng sốt rồi chợt bước nhanh vào, trên mặt lộ ra nụ cười hiền lành:
“Tiểu huynh đệ cũng đang tránh mưa sao?” Chàng thuận miệng chào hỏi, nhìn xung quanh một lần, thấy củi khô đã được Phó Nhiêu nhặt xong, hơi khép tay áo cười nói: “Hay là chúng ta cùng làm?”
Phó Nhiêu mấy năm nay ra ngoài đều mặc trang phục nam nhân, cũng nhờ sư phụ giúp đỡ thay đổi dung mạo, dáng người của nàng so với nam nhân mà nói thì có phần gầy gò hơn, cùng với khuôn mặt thanh tú kia, thoạt nhìn chỉ có mười bảy mười tám tuổi nên có thể gọi một câu “Tiểu huynh đệ”.
Phó Nhiêu ôn hòa gật đầu: “Không có việc gì, ngài ngồi trước đi, để ta châm lửa.”
Tuy là không hiểu nam nhân này vì sao lại lạc đường, nhưng nhìn cử chỉ thanh quý, chắc chắn là được người khác hầu hạ quen rồi nên Phó Nhiêu không dám để chàng làm.
Bùi Tấn cũng không miễn cưỡng, lấy từ ống tay áo ra một miếng vải nhung, trải trên mặt đất, ung dung ngồi xuống, thấy Phó Nhiêu nhóm lửa cực kỳ thuần thục, không khỏi đánh giá nàng thêm vài lần, ánh mắt nghiêm nghị: “Tiểu huynh đệ là người ở đâu?”
Phó Nhiêu dựng đống lửa lên, ngọn lửa cháy lên nho nhỏ, thuận miệng trả lời: “Ta ở gần đây, nghe nói thuyền rồng xảy ra chuyện, liền đưa lương thực dư trong nhà đến lều, không ngờ trên đường gặp mưa to nên phải nán lại đây.”
Phó Nhiêu không bao giờ tiết lộ việc hành nghề y của mình trừ khi thật cần thiết.
Bùi Tấn nghe vậy thần sắc sáng ngời: “Tiểu huynh đệ rất có lòng tế thế.”
Phó Nhiêu đốt xong đống lửa, đang muốn ngồi xuống thì đã thấy Bùi Tấn ngồi lên đống cỏ nàng đã trải sẵn.
Bùi Tấn theo tầm mắt nàng nhìn thoáng qua dưới thân mình, ngượng ngùng cười: “Cùng ngồi đi, dưới đất lạnh.”
Phó Nhiêu không nhúc nhích, nàng sẽ không dựa sát vào một người đàn ông như vậy nên lại tìm chút cỏ dại trải cho mình một chỗ, chỉ là cỏ khô không nhiều lắm, ít nhiều có chút ẩm ướt, nàng miễn cưỡng ngồi xuống, đặt vạt áo ở phía trước mà hong.
Bùi Tấn thấy thế, cảm thấy vô cùng bất đắc dĩ: “Tiểu huynh đệ, thúc thúc không phải người xấu, ngươi lại đây ngồi đi.”
Phó Nhiêu nặn ra một nụ cười miễn cưỡng: “Không cần.” Trong lòng đối với việc chàng ngồi không mà hưởng lợi thật sự không vui.
Bùi Tấn nhận ra, xấu hổ đứng dậy, chỉ vào vị trí đã trải vải nhung: “Nào, ta đổi vị trí với ngươi.”
Phó Nhiêu không đến mức vì chút chuyện nhỏ này mà tức giận, hé miệng nói: “Không cần.” Nàng lấy lương khô trong túi ra, cắn từng miếng nhỏ, cũng không để ý tới Bùi Tấn.
Động tác của nàng có chút quen thuộc.
Ánh sáng chiếu vào ánh mắt của nàng, ngọn lửa dâng trào, không hiểu sao lại gợi ra một chút ký ức trong lòng chàng.
Chàng thở dài, ngồi xổm người xuống, đem cỏ khô phía dưới lớp vải nhung xê về phía bên người nàng, thấp giọng khẽ cười nói: “Thúc thúc định là cùng ngươi ngồi, ngoan, ngồi lên, ngươi tuổi còn nhỏ, đừng làm tổn thương thân thể...”
Lời còn chưa dứt, một trận gió lạnh thổi vào, cổ họng chàng lạnh lẽo, bỗng nhiên ho khan kịch liệt.
“Khụ khụ khụ...” Chàng che miệng, khom người, ho đến thở không ra hơi, cuối cùng ngồi xuống đất.
Phó Nhiêu thấy chàng khó thở vội vàng nghiêng người giúp chàng vỗ lưng điểm huyệt, chàng nhất thời không để ý, ngửa người về phía sau đụng phải Phó Nhiêu, Phó Nhiêu cứ như vậy ngã xuống bên cạnh chàng khiến hai người ngồi cùng vào một chỗ.
Phó Nhiêu đang muốn lui người ra lại thấy khóe môi chàng tràn ra một chút máu, sắc mặt liền trầm xuống:
“Thúc thúc có bệnh cũ không? Hay là bị thương?”
Sắc mặt chàng rất kỳ quái, chàng ho nhiều như vậy mặt nhất định đã đỏ bừng, nhưng trên mặt lại nhìn không ra chút dị sắc nào.
Bùi Tấn nghe vậy ánh mắt dừng lại, chợt lấy từ ngực ra một chiếc khăn tuyết, lau khóe miệng, khàn giọng nói: “Bệnh cũ năm xưa, cũng không có gì đáng ngại...”
Ho ra máu rồi, sao lại không có gì đáng ngại?
Phó Nhiêu theo bản năng muốn giúp chàng bắt mạch, tay đã vươn ra, ánh mắt dừng ở chiếc khăn tuyết kia, ánh mắt bỗng nhiên chấn động, dòng nhiệt trong huyết mạch đột nhiên dâng đến chóp lông mày.
Một nỗi sợ cực hạn dâng lên trong lồng ngực, thân thể nàng đột ngột ngã xuống, nằm trên mặt đất, ánh mắt nhìn chằm chằm cái khăn tuyết kia, rất lâu mới tìm được thanh âm của mình: “Đại huynh, cái khăn này hoa văn cực kỳ đẹp, ngài mua ở đâu?”
Bùi Tấn chậm rãi cụp mắt, nhìn về phía chiếc khăn thêu trong tay, tất cả đều trắng như tuyết, chỉ có góc dưới bên phải thêu mấy đóa hoa mai, cánh hoa màu hồng phấn dính chút máu, kiều diễm tươi đẹp, sợi hoa dài nhỏ, trông rất sống động, khuôn mặt chàng hiện lên một chút nhu tình, nhưng vẫn uy nghi như trước.
“Là thê tử đã mất tặng.”