Trước giờ, Thẩm An Thu luôn có ba khúc mắc trong lòng, một là bản thân hại chết nương tử mình là Sở Vân, hai là nữ nhi của ông có tật ở mắt, ba là lúc Sở Vân ra đi vẫn luôn nhớ đến người cha già ở kinh thành.
Năm đó Sở Vân khăng khăng gả cho ông, vì vậy mà đoạn tuyệt cha con với Sở tướng. Nhưng Thẩm An Thu biết, lúc thê tử lâm chung vẫn có hai mối lo là A Loan ở bên ngoài cùng ông và Sở tướng quân.
Sở Vân không hối hận khi gả cho Thẩm An Thu, nhưng nàng thẹn với lòng, khi đó đã quá xúc động, nếu nàng chịu ngồi xuống nói chuyện hài hòa với Sở tướng, thì cha con họ đã không đoạn tuyệt đến nông nỗi như vậy.
Khi Sở Vân qua đời, Thẩm An thu đã cho người đưa tin đến Sở phủ, nhưng người đưa tin còn không thể bước được vào cửa Sở gia, thì phong thư báo tang làm sao đến được tay Sở tướng.
Thẩm An thu cho rằng Sở tướng quyết tâm không nhận Sở Vân, cho đến khi Thanh Hà chạy đến tiểu viện Thẩm gia nói có người ở trước mộ Sở Vân khóc đến ngất xỉu, người đó lại là Sở tướng. Mười mấy năm qua đi, ông ấy đã già đi nhiều, thấy lão thừa tướng ôm bia mộ Sở Vân mà khổ sở làm Thẩm An Thu thực không biết phải làm sao, đâu còn chỗ nào giống như trên triều đình uy phong.
Cha vợ với con rể lần đầu bình tĩnh nói chuyện, thế nhưng lại là trước mộ của Sở Vân, ân oán ngày cũ theo đất bị chôn thật sâu, nhưng hai người rất nhanh lại nổi tranh chấp mới.
Sở tướng buồn bực nữ nhi vì một tên thầy thuốc giang hồ mà đoạn tuyệt quan hệ với mình, vì thế đã nhẫn tâm bỏ mặc không cho người trong phủ nhắc tới Sở Vân, nhưng sau khi hết giận, ông muốn tìm Sở Vân và Thẩm An Thu thì lại mất hết tin tức. Đương nhiên hắn biết, Thẩm An Thu từng phái người đến Sở phủ đưa tin, ông trong lòng thấy không ổn, cảm thấy có điều không lành, nhưng rốt cuộc lại không tìm được người đưa tin. Lần này nếu không phải ngoài ý muốn biết được Đào Hoa trấn có một thần y họ Thẩm, ông cũng không tìm đến đây.
Thẩm thần y ở Đào Hoa trấn chính là Thẩm An thu, nhưng nữ nhi của ông đã sớm không còn từ mười mấy năm trước. Sở tướng chịu đả kích qua lớn, suýt nữa đập đầu chết ở trước mộ Sở Vân, nhưng hắn lại chợt nhìn thấy trên bia mộ ghi rõ tên người lập mộ là Thẩm An thu cùng Thẩm A Loan.
Biết nữ nhi còn lưu lại con cái, Sở tướng khăng khăng đem A Loan về kinh thành, nhưng Thẩm An Thu không đồng ý, vì vậy hai người lại cãi nhau một trận.
Lão thừa tướng muốn thuyết phục A Loan, nàng lại lắc đầu nói: “A Loan sinh ra ở Đào Hoa trấn, lớn lên ở Đào Hoa trấn, chưa từng nghĩ đến sẽ đi nơi khác.” Nàng chỉ muốn phụng dưỡng cha.
Không khuyên được A Loan, Sở tướng đơn giản liền tìm điểm yếu, trực tiếp ở lại tiểu viện của Thẩm gia.
Rất nhanh ông liền phát hiện gian phòng phía tây có một kẻ lạ mặt.
Ông rất không bất mãn với điều này, nói với Thảm An Thu: “A Loan đã là một cô nương, sao ngươi lại để một nam tử lạ mặt ở trong nhà như vậy.”
Dù không cùng suy nghĩ với Sở tướng nhưng Thẩm An Thu cũng không thể phản bác được điều này.
Ông cũng nghĩ, Mạnh Hành Uyên này dưỡng thương cũng lâu rồi, chẳng nhẽ vẫn còn muốn ăn vạ ở Thẩm gia nữa hay sao.
Vì Vậy, hắn liền đi đến gian phòng phía tây, nói vòng vo ám chỉ Mạnh Hành Uyên hắn thương thế đã ổn rồi, hắn hãy nhanh rời đi đi.
Nhưng ông không ngờ Mạnh Hành Uyên lại mặt dày như vậy, thằng nhãi này sau khi nghe vậy thì lại giả vờ đưa tay lên che ngực như thể bẩn thân vẫn còn yếu lắm vậy. Thẩm An Thu muốn gọi người đến đem hắn ném ra ngoài, nhưng ông biết A Loan có tấm lòng lương thiện, khẳng định sẽ không để ông làm vậy, cho nên nghĩ tới nghĩ lui chỉ có thể để Sở tướng làm điều ác.
Kết quả, ông thật không ngờ khi nhạc phụ đại nhân đi đến phòng phía tây, thấy một nam nhân tuấn mỹ nghiêng người dựa vào bên giường liền mềm chân quỳ gối xuống nền đất.
Ông thừa nhận, tiểu tử này trên người có khí thế kinh người, nhưng Sở tướng cũng là người dưới một người trên vạn người, sao lúc này lại như vậy?
“Lão thần tham kiến bệ hạ.”
“…………..”
Thẩm An Thu và A Loan cùng ngây người.
Bọn họ tiện tay cứu người thế mà lại cứu được Cửu ngũ chí tôn?
Biết Sở tướng đến, Mạnh Hành Uyên không đi, hắn cũng không thèm để ý chuyện bại lộ thân phận.
Giống như trong khoảng thời gian hắn ở lại Thẩm gia tâm tư đã trầm tĩnh hơn nhiều, vì vậy dù Tô Kỳ báo với hắn Sở tướng âm mưu làm phản cũng chẳng sợ, lúc này hắn cũng không vội hỏi tội, ngược lại còn muốn tìm hiểu liên hệ giữa Sở gia và Thẩm gia.
Sở tướng liếc nhìn sắc mặt Mạnh Hành Uyên, thấy được vẻ cao thâm khó đoán, nhất thời cũng không biết tâm tư của vị hoàng đế trẻ tuổi này.
Nói về vị tân vương này, thì đấy chính là kẻ giẫm lên máu tươi của huynh đệ để ngồi lên long ỷ, sau này lại chuẩn bị đoạn sấm rền gió cuốn diệt trừ gian thần nịnh thần, máu chảy triều đường, làm cho tất cả bá quan văn võ triều đình đều run sợ, ở kinh thành trẻ em cũng không dám khóc đêm, nhưng hôm nay ông lại nhạy bén nhận ra vị này lại bất mãn với mình, nhưng lại không thể hiện ra là vì cái gì?
Lòng có chút nghi ngờ, nhung lúc nói đến nữ nhi của mình liền trút bỏ sự cẩn thận, chạm đến vết thương cũ trong lòng lão tướng quân liền không kiềm chế nổi. Chỉ thấy Sở tướng ngay lập tức khóc lóc thảm thiết, “Là lão thần nhất thời hồ đồ, phá đi mối nhân duyên, nó cũng là nữ nhi, vậy mà một đi không trở lại, cha con xa cách nhau mười bảy năm trời, đến lúc gặp lại thì đã âm dương cách biệt. Lão thần khẩn cầu bệ hạ, ân chuẩn cho lão thần từ quan, để lão thần ở lại Đào Hoa trấn bầu bạn với con gái………”
Nhìn Sở tướng quỳ gập người ở trước mặt mình, Mạnh Hành Uyên lần đầu tiên muốn Tô Kỳ thu hồi lại tin tức nghi ngờ kia.
Lão già này thật sự cả gan làm chuyện ngu xuẩn như lật đổ triều đình sao?
Mạnh Hành Uyên lẳng lặng nhìn Sở thừa tướng, thật lâu sau mới mở miệng nói: “Sở tướng đã muốn quy ẩn, vậy thì vì sao lại phái người đi bắt cóc tiết độ sứ trong quân.”
“Cái gì?” Lão thừa tướng cực kỳ hoảng hốt, “Bệ hạ, lão thần không có làm chuyện đó.”
Mạnh Hành Uyên đem tin tình báo của Tô Kỳ nói cho Sở tướng nghe, ông nghe xong sắc mặt càng khiếp sợ hơn, Mạnh Hành Uyên quan sát kỹ càng, nếu Sở tướng không phải hồ ly tinh tu luyện ngàn năm, thì chỉ có thể là tin tức tình báo có vấn đề.
Sở thừa tướng vội nói: “Lúc lão thần rời kinh, tiết độ sứ của Sóc Bắc, Tào Huân gửi thư về kinh nói là mình tuổi già sức yếu, thỉnh cầu trong triều phái một người có năng lực có đức hạnh đến Sóc Bắc tiếp nhận chức tiết độ sứ, việc này lão thần đã dâng tấu cho bệ hạ trước khi rời kinh, lệnh Lại Bộ tuyển chọn vài vị tướng quân, chỉ chờ bệ hạ hồi kinh liền trình báo ngay. Lão thần trước ngày rời kinh phái người đi trước, nhưng là phái người đi Giang Nam để tìm nữ nhi của thần Sở Vân.”
Dừng một chút, ông lại nói: “Đúng rồi, còn có thủ hạ lão thần cử đi đúng là đi Sóc Bắc, nhưng mà là đi tìm bệ hạ.”
Lúc trước, Mạnh Hành Uyên cải trang xuất cung vi hành là để ngầm điều tra quân vụ ở Sóc Bắc. Nhưng hắn đi tuần vậy mà lại thành mấy tháng, so với lúc trước thì càng mất tin tức, trong triều đã có người nổi lên hoài nghi, thậm chí còn có lời đồn vớ vẩn truyền ra, Sở tướng từng tiến cung gặp Thái Hậu, Thái Hậu nói chuyện không rõ, che che giấu giấu, khiến ông hoài nghi, vì vậy mới phái người đi Sóc Bắc tìm người.
Hiện giờ thì Mạnh Hành Uyên lại ở Đào Hoa trấn tại Giang Nam.
Mạnh Hành Uyên nói: “Quân vụ Sóc Bắc trẫm đã phái người khác đi.” Hắn trên danh nghĩa đi Sóc Bắc là vì thực ra muốn đi Giang Nam xem muối vụ. Mấy người phụ trách muối vụ đều bị mất mạng ngoài ý muốn, sự việc quá kỳ quặc, trực giác của hắn cho rằng có âm mưu phía sau, đáng tiếc là còn chưa tra được manh mối thì đã bị ám sát.
Lúc này hắn suy nghĩ đến lời Sở tướng nói, còn có tin tức của Tô Kỳ, trong lòng đắn đo không biết qua bao lâu.
Chỉ sợ lòng quân Sóc Bắc là giả, sự vụ Giang Nam là thật.
Quả nhiên, nửa đêm hôm nay, lúc Mạnh Hành Uyên đang ngủ thì bị một trận tiếng động sột soạt là bừng tỉnh. Hắn lập tức mặc y phục vào, lấy kiếm làm ra tư thế phòng thủ, trốn ở phía sau cửa. Chờ một lúc lâu sau, không thấy thích khách vào trong, ngược lại lại ngửi được mùi dầu cây Trẩu, chờ hắn phản ứng lại thì bên ngoài đã bùng lên ánh lửa.
Người bị lửa bao vây không chỉ có hắn ở phòng phía tây mà còn có Thẩm An Thu cùng Sở tướng ở phía phòng của A Loan.
“Đi lấy nước đi!”
Trong chốc lát, lửa đã bén vào ngôi nhà tranh, bùng cháy rữ rội.
Mạnh Hành Uyên đá văng cửa, lao ra khỏi nơi bị lửa bao vây, thấy đã có người đi dập lửa cùng Thẩm An Thu và Sở tướng rồi, hắn liền đi tới chỗ A Loan ở.
A Loan sặc khói không thể hít thở được, mở mắt thấy có ánh lửa bùng lên, lúc này mới hoảng hốt, tránh ngọn lửa mà chui vào trong phòng, ánh lửa quá lớn làm nàng không biết nên làm gì.
Nàng hoang mang đi tới mép giường cầm cây gậy trúc, nghĩ muốn trốn, nhưng bốn bề đều là lửa, trước mắt khói đen mịt mù không nhìn rõ thứ gì, A Loan cơ bản không có chỗ để trốn.
Hai mắt A Loan vốn không nhìn rõ, nhiều khói như vậy mắt càng khó chịu, nàng ném gậy trúc đi đưa hai tay lên che mắt lại, đúng lúc này nàng nghe được tiếng xà nhà bị cháy kêu tanh tách.
Khi A Loan tỉnh lại thì đã là hai ngày sau, ở trong sương phòng của Lâm gia.
Một mồi lửa lớn đã hủy đi tiểu viện của Thẩm gia, Lâm gia ở bên cạnh cũng không tránh được, nhưng vẫn giữ lại được mấy sương phòng.
Lâm thẩm thấy A Loan đã tỉnh, vô cùng vui mừng, vội vàng đi gọi Thẩm An Thu.
Thẩm An Thu đi tới, phía sau có Thanh Hà đi theo.
Cẩn thận bắt mạch cho A Loan, xác định nàng không sao, Thẩm An Thu áy náy nói “Là cha không tốt, không thể bảo vệ tốt cho con.”
A Loan cảm thấy ngoại trừ đôi mắt có hơi đau, trên người cũng không có chút đau đớn nào, cái xà nhà kia…….A Loan ngơ ngẩn, nàng nhớ rõ lúc đó cái xà nhà kia bị gãy rơi xuống, nàng có muốn tránh cũng không tránh nổi, chính vào lúc đó có một lực đạo kéo nàng về một bên, mũi nàng còn ngửi được mùi tùng mộc hương nhàn nhạt, đó là……….
A Loan nhìn về phía Thẩm An Thu, hỏi “Mạnh công tử đâu ạ?”
Trong giọng nói thấy rõ sự lo lắng.
Thẩm An Thu lắc đầu.
“Hắn không bị sao cả.”
“Vậy hắn đang ở đâu?”
“Hồi kinh rồi.”
A Loan lúc này mới nhớ, người nọ không phải người thường, mà là vua của một nước.