Phố Thereses.
Ngày 15 tháng 5 năm 2000
Văn phòng của Stale Aune sơn màu vàng, các bức tường phủ những giá sách chật kín sách chuyên ngành, các bức vẽ những nhân vật hoạt hình của Kjell Aukrust.
“Ngồi đi, Harry,” bác sĩ Aune nói. “Ngồi ghế hay đi văng?”
Đấy là lời mào đầu chuẩn của ông ta, Harry đáp lại bằng cách nhếch khóe môi trái thành cái nụ cười chuẩn vui-đấy- nhưng-chúng-ta-đã-nghe-rồi-mà. Khi Harry gọi điện từ sân bay Gardermoen, Aune đã nói rằng Harry có thể đến. Nhưng ông không có nhiều thời gian vì còn phải dự một hội thảo tại Hamar mà ông sẽ đọc bài diễn văn khai mạc.
“Nó có tựa đề là ‘Những vấn đề liên quan đến chẩn đoán chứng nghiện rượu’!” Aune nói. “Sẽ không nhắc đến tên anh đâu.”
“Có phải vì thế nên ông ăn diện thế này không?”
“Trang phục là những tín hiệu mạnh mẽ nhất chúng ta truyền đi,” Aune nói, một bàn tay miết dọc theo ve áo. “Đồ vải tuýt ra hiệu nam tính và tự tin!”
“Còn nơ con bướm?” Harry hỏi, rút ra cuốn sổ tay và cây bút.
“Sự kiêu căng và phù phiếm trí tuệ, vẻ nghiêm trang với một chút tự châm biếm, nếu anh thích. Có vẻ quá đủ để gây ấn tượng với những đồng nghiệp cấp dưới.”
Aune ngả người ra sau, tự hài lòng với mình, xếp hai bàn tay trước cái bụng bự.
“Kể cho tôi nghe vẻ chứng đa nhân cách!” Harry nói. “Hay là bệnh tâm thần phân liệt.”
“Trong năm phút à?” Aune làu bàu.
“Vậy thì tóm tắt cho tôi.”
“Trước hết, anh nói đến đa nhân cách và tâm thần phân liệt liền một hơi, và đó là một trong những sự hiểu lầm, mà vì lý do nào đó để thu hút sự tưởng tượng của công chúng. Tâm thần phân liệt là một thuật ngữ chỉ cả một nhóm những rối loạn tâm thần khác nhau rất rộng, nó chẳng có liên quan gì đến đa nhân cách cả. Đúng là schizo trong tiếng Hy Lạp nghĩa là phân chia, nhưng ý của bác sĩ Eugen Bleuler là các chức năng tâm lý trong não bộ của kẻ tâm thần phân liệt bị phân chia. Và nếu…”
Harry chỉ tay vào đồng hồ đeo tay.
“Được rồi!” Aune đáp. “Đa nhân cách mà anh nói đến được gọi là MPD, một chứng rối loạn đa nhân cách, được định nghĩa là sự tồn tại của hai hoặc nhiều nhân cách trong một cá nhân thay phiên nhau là đối tác vượt trội. Như với bác sĩ Jekyll và ông Hyde.”
“Vậy là nó tồn tại à?”
“Đúng. Nhưng nó hiếm lắm, hiếm hơn một số phim Hollywood muốn khiến chúng ta tin nhiều. Trong hai mươi nhăm năm làm bác sĩ tâm lý, tôi chưa bao giờ có may mắn quan sát được trường họp người mắc MPD nào. Nhưng dẫu sao tôi cũng biết một chuyện về nó.”
“Lấy ví dụ?”
“Lấy ví dụ, nó gần như luôn có liên quan đến chứng mất trí nhớ. Nói cách khác, người mắc chứng MPD có thể tỉnh dậy với một cảm giác váng vất mà không nhận ra rằng nhân cách kia của họ là một kẻ nghiện rượu. Thực ra thì một nhân cách có thể là kẻ nghiện rượu, và nhân cách kia là người ghét uống rượu.”
“Không phải ông đang nói theo nghĩa đen đấy chứ, theo tôi hiểu?”
“Dĩ nhiên rồi.”
“Nhưng chứng nghiện rượu cũng là sự suy yếu thể chất.”
“Đúng, và điều đó khiến các bệnh nhân MPD trở nên hấp dẫn. Tôi có một báo cáo về một trường hợp MPD, trong khi nhân cách này là một kẻ nghiện thuốc lá nặng thì nhân cách kia chưa bao giờ sờ đến thuốc. Và khi anh đo huyết áp của người hút thuốc, nó cao hơn 20%. Những phụ nữ mắc chứng MPD đã báo cáo rằng họ thấy kinh vài lần một tháng, vì mỗi nhân cách có chu kỳ của riêng mình.”
“Vậy những người này có thể thay đổi thể chất của chính mình?”
“Đúng, ở một mức độ nhất định nào đó. Câu chuyện về bác sĩ Jekyll và ông Hyde thực ra không quá cách xa sự thật như người ta có thể nghĩ. Trong một vụ nổi tiếng được bác sĩ Osherson mô tả, một nhân cách có sở thích giao hợp với người khác giới, trong khi nhân cách kia lại thích tình dục đồng giới.”
“Các nhân cách có thể có những giọng nói riêng không?”
“Có. Thực ra giọng nói là một trong những cách dễ nhất để quan sát sự biến đổi giữa các nhân cách.”
“Khác đến mức ngay cả ai đó biết một người này rất rõ, cũng sẽ không nhận ra được một trong số những giọng kia. Chẳng hạn như qua điện thoại?”
“Nếu cá nhân có liên quan không biết gì về nhân cách kia thì đúng là vậy. Với những người chỉ có một kiến thức nông cạn về bệnh nhân MPD, sự thay đổi trong các cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể có thể đã đủ để họ cùng ngồi trong một phòng mà không nhận ra người kia.”
“Liệu người mắc chứng MPD có thể che giấu nó với những người thân cận nhất của họ không?
“Có, điều đó là khả thi. Tần suất các nhân cách kia xuất hiện nhiều bao nhiêu là chuyện cá nhân, và chính bệnh nhân ở một mức độ nào đó cũng có thể tự kiểm soát những sự thay đổi đó.”
“Nhưng rồi các nhân cách sẽ phải biết về nhau chứ?”
“Thực sự là vậy, nhưng điều đó cũng không bất thường. Và như trong cuốn tiểu thuyết về bác sĩ Jekyll và ông Hyde, có thể có những sự xung đột quyết liệt giữa các nhân cách, vì họ có những mục đích khác nhau, quan niệm về đạo đức khác nhau, những đồng cảm và ác cảm khác nhau, liên quan đến những người xung quanh họ và vân vân.”
“Thế còn chữ viết tay thì sao? Họ cũng có thể dùng nó mà quậy phá không?”
“Đây không phải là quậy phá, Harry. Cả anh cũng không phải lúc nào cũng như lúc nào. Khi anh đi làm về, một loạt những thay đổi không thể nhận thấy cũng diễn ra trong anh: giọng nói của anh, ngôn ngữ cơ thể của anh vân vân. Thật lạ lùng khi anh nói đến chữ viết tay vì tôi có một cuốn sách ở đâu đây, trong đó có tấm ảnh một lá thư do một bệnh nhăn mắc chứng MPD viết, với mười bảy kiểu chữ viết hoàn toàn khác nhau và hoàn toàn nhất quán. Tôi sẽ xem có tìm được nó không khi có thêm thời gian.”
Harry ghi lại vài điều cho nhớ trong sổ tay.
“Những chu kỳ kinh nguyệt khác nhau, kiểu chữ viết khác nhau; thật đúng là điên rồ,” anh lẩm bẩm.
“Xem anh nói kìa, Harry. Tôi hy vọng đã giúp được anh vì tôi phải đi rồi.”
Aune gọi một chiếc taxi và họ cùng nhau ra ngoài phố. Khi đứng trên vỉa hè, Aune hỏi Harry anh có kế hoạch gì cho ngày Quốc khánh 17 tháng Năm chưa. “Vợ chồng tôi sẽ có mấy người bạn đến dùng cơm. Anh rất được chào đón đấy!”
“Ông thật tử tế. Nhưng bọn Quốc xã mới định xử những người theo đạo Hồi kỷ niệm lễ Eid vào ngày mười bảy. Tôi đã được chỉ thị phối hợp giám sát quanh thánh đường Hồi giáo tại Grenland,” Harry đáp, vừa hạnh phúc xen lẫn ngượng ngập trước lời mời bất ngờ. “Họ luôn luôn bắt những kẻ độc thân chúng tôi làm việc vào những ngày lễ của gia đình, ông biết đấy.”
“Anh không thể chỉ ghé qua một lúc được sao? Hầu hết những người đến cũng đều có việc riêng phải làm sau đó mà.”
“Cảm ơn nhiều. Để xem sẽ xảy ra chuyện gì rồi tôi sẽ gọi điện cho ông. À mà những người bạn của ông họ thế nào?”
Aune kiểm lại nơ con bướm cho chắc là đã thẳng thớm.
“Họ giống anh thôi!” ông nói. “Nhưng vợ tôi có quen biết một số nhân vật đáng kính.”
Đúng lúc đó chiếc taxi tấp vào lề đường. Harry giữ cửa xe mở trong khi Aune vào trong, nhưng khi vừa định đóng cửa, anh chợt nhớ ra một chuyện.
“Các chứng MPD do cái gì gây ra?”
Aune cúi người trên ghế ngồi, ngước nhìn Harry. “Thực sự anh muốn hỏi chuyện gì, Harry?”
“Tôi không chắc lắm, nhưng nó có thể quan trọng.”
“Được rồi. Các trường hợp MPD thường đã bị lạm dụng ở tuổi ấu thơ. Nhưng một chứng rối loạn cũng có nguyên nhân là những trải nghiệm cực kỳ đau buồn về sau trong đời. Một nhân cách khác được tạo ra để chạy trốn những rắc rối đó.”
“Những loại trải nghiệm đau buồn ấy có thể là gì nếu chúng ta nói về một nam giới đã trưởng thành?”
“Anh phải vận dụng trí tưởng tượng của mình thôi, Harry. Anh ta có thể đã trải qua một thiên tai, mất đi một người anh ta yêu thương, là nạn nhân của bạo lực hoặc đã phải sống trong sợ hãi trong một khoảng thời gian kéo dài.”
“Ví dụ như một người lính trong chiến tranh.”
“Chiến tranh có thể là một cái gây nên, đúng rồi.”
“Hoặc là chiến tranh du kích.”
Harry tự nói câu sau cùng với chính mình, khi chiếc taxi chở Aune đã lên đường xuống cổng Thereses.
• • •
“Quán Scotsman,” Halvorsen nói.
“Cậu định trải qua ngày 17 tháng Năm ở quán rượu Scotsman đấy à?” Harry nhăn nhó, đặt cái túi của anh phía sau giá treo mũ.
Halvorsen nhún vai. “Có đề nghị nào khá hơn không?”
“Nếu cậu phải đến một quán rượu, ít nhất hãy tìm một quán nào đó hơi có phong cách hơn Scotsman đi. Hay tốt hơn hết là cậu đổi phiên gác cho một trong những ông bố ở đây, thực hiện vài phiên gác trong lúc có đoàn diễu hành của trẻ em. Được trả gấp đôi và không bị váng vất vì say.”
“Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này.”
Harry ngồt lọt thỏm trong ghế.
“Anh có định đem sửa nó sớm không? Nghe nó dứt khoát là ốm yếu.”
“Không sửa được đâu,” Harry ảm đạm nói.
“Xin lỗi. Anh có tìm được gì tại Viên không?”
“Tôi đang nói đến chuyện đó đây. Cậu nói trước đi.”
“Tôi đã cố gắng tìm kiếm bằng chứng ngoại phạm của Even Juul vào ngày vợ ông ta mất tích. Ông ta nói rằng mình đi dạo quanh trung tâm thành phố, ghé vào quán Kaffebrenneri tại Ullevalsveien, nhưng ông ta chẳng gặp được ai có thể làm chứng cho câu chuyện của mình. Nhân viên làm việc tại quán Kaffebrenneri nói rằng họ quá bận, nên không thể chứng thực cũng như phản đối bất kỳ điều gì.”
“Kaffebrenneri ngay đối diện quán Schroder bên kia đường,” Harry nói.
“Thì sao?”
“Tôi chỉ đang nêu ra một thực tế thôi. Weber nói thế nào? ”
“Họ chẳng tìm được gì cả. Weber bảo rằng nếu Signe Juul bị mang đến pháo đài trong chiếc xe mà người gác đêm đã nhìn thấy, chắc hẳn họ đã tìm thấy cái gì đó nơi quần áo của bà ấy, những sợi xơ từ ghế sau, đất hoặc dầu từ ngăn để hành lý, một cái gì đó.”
“Hắn đã trải túi đựng rác trong xe,” Harry nói.
“Weber cũng bảo thế.”
“Cậu có kiểm tra loại cỏ khô họ tìm thấy trên áo khoác không?”
“Rồi. Nó có thể là từ chuồng ngựa của Mosken. Cộng thêm một triệu nơi khác nữa.”
“Cỏ khô. Không phải là rơm đâu.”
“Chẳng có gì đặc biệt ở cỏ khô cả, Harry, chỉ là… cỏ khô thôi.”
“Chết tiệt.” Harry nhìn quanh một cách gắt gỏng.
“Thế còn Vienna thì sao?”
“Nhiều cỏ khô hơn. Cậu có biết gì về cà phê không, Halvorsen?”
“Hả?”
“Ellen đã từng pha cà phê tử tế. Cô ấy đã mua nó tại một cửa hàng nào đó ở Gr onl and này. Có thể…”
“Không!” Halvorsen đáp. “Tôi không pha cà phê cho anh đâu.”
“Hứa với tôi là cậu sẽ thử,” Harry nói, lại đứng lên. “Tôi sẽ ra ngoài trong vòng hai giờ.”
“Đó là tất cả những gì anh phải nói về Vienna đấy à? Cỏ khô à? Thậm chí cả một cọng rơm trong gió cũng không có?”
Harry lắc đầu. “Xin lỗi. Cũng là ngõ cụt thôi. Cậu rồi sẽ quen với chuyện đó.”
• • •
Đã xảy ra chuyện gì đó. Harry đi lên đầu đường Gronlandsleiret mà cố gắng nghĩ cho ra đó là cái gì. Có điều gì đó ở những người trên phố xá, đã xảy ra chuyện gì đó với họ trong khi anh ở Vienna. Anh phải mất một chặng đường dài lên phố Karl Johans rồi mới hiểu nó là cái gì. Mùa hè đã đến. Lần đầu tiên trong bao nhiêu năm, Harry cảm nhận được mùi nhựa đường, mùi của những người đi ngang qua anh, mùi của cửa hàng hoa tại Grensen. Khi đi bộ qua Vườn thượng uyển, mùi cỏ mới cắt nồng đến mức anh phải mỉm cười. Một người đàn ông và một phụ nữ mặc bộ quần áo bảo hộ lao động của Hoàng cung đang đứng nhìn lên một ngọn cây, thảo luận điều gì đó rồi cùng lắc đầu. Người phụ nữ cởi khuy áo bộ đồ bảo hộ, buộc quanh eo lưng. Harry nhận thấy điều đó khi cô ta ngước nhìn lên những ngọn cây và đưa tay chỉ, đồng nghiệp của cô ta ngầm liếc trộm chiếc áo thun bó sát của cô ta.
Tại Hedgehaugsveien, các cửa hiệu thời trang hợp thời và không hợp thời cho lắm đang trải qua những khâu cuối cùng trong việc bán các bộ cánh cho mọi người vào dịp Quốc khánh. Nhiều cửa hiệu bán ruy băng và cờ, phía xa xa anh còn nghe vọng lại tiếng ban nhạc đang dạo những nốt cuối cùng của một khúc quân hành truyền thống. Theo dự báo có mưa rào, nhưng trời sẽ ấm.
Harry toát cả mồ hôi khi anh bấm chuông cửa nhà Sindre Fauke.
Fauke không đặc biệt mong đợi ngày lễ Quốc khánh này.
“Quá om sòm. Quá nhiều cờ quạt. Thảo nào Hitler lại cảm thấy gắn bó với người Na Uy thế. Người Na Uy cực kỳ có tinh thần dân tộc. Chúng ta chỉ không dám thừa nhận điều đó.”
Ông rót cà phê ra tách.
“Gudbrand Johansen cuối cùng đã được đưa vào điều trị tại một bệnh viện quân y ở Vienna,” Harry nói. “Cái đêm trước khi ông ta phải về Na Uy, ông ta đã giết một bác sĩ. Kể từ đó không ai thấy ông ta nữa.”
“Tôi cũng không thấy nữa,” Fauke nói, uống xì xụp tách cà phê nóng phỏng miệng. “Tôi biết có điều gì đó không ổn với thằng đó.”
“Ông có thể nói cho tôi nghe đôi điều về Even Juul không?”
“Rất nhiều đấy. Nếu tôi phải nói.”
“Vâng, ông phải nói đấy.”
Fauke nhướng một bên lông mày rậm rì.
“Cậu có chắc giờ cậu không tìm nhầm người không đấy, Hole?”
“Tôi chẳng chắc chắn một điều gì hết.”
Fauke trầm ngâm thổi tách cà phê.
“Được rồi. Nếu điều đó là hoàn toàn cần thiết. Juul và tôi có mối quan hệ như kiểu quan hệ giữa Gudbrand Johansen và Daniel Gudeson theo nhiều cách. Tôi như một người cha thứ hai đối với Even. Điều này có thể liên quan gì đó đến thực tế rằng anh ta không có cha mẹ.”
Tách cà phê Harry đang đưa lên miệng thì khựng lại giữa chừng.
“Không nhiều người biết điều đó vì Even cứ đi đến đâu là dựng chuyện lên đến đó. Tuổi thơ do anh ta tự dựng lên bao gồm nhiều người, nhiều chi tiết, nơi chốn và ngày tháng hơn tất cả mọi người khi nhớ về tuổi thơ mình. Câu chuyện kể chính thức đó là anh ta đã lớn lên cùng gia đình Juul tại một trang trại ở Grini, nhưng sự thật là anh ta đã lớn lên với rất nhiều cha mẹ nuôi tại rất nhiều cơ sở khắp Na Uy, trước khi cuối cùng anh ta cập bến gia đình Juul không có con cái lúc mười hai tuổi”
“Làm sao ông biết ông ta nói dối về chuyện đó?”
“Chuyện này cũng khá lạ lùng. Nhưng một đêm khi Even và tôi ra canh gác ngoài lán trại chúng tôi dựng lên trong rừng, phía Bắc Harestua, thì một điều lạ lùng đã xảy ra với anh ta. Even và tôi vào thời điểm đó không mấy thân thiết với nhau. Tôi đã cực kỳ kinh ngạc khi anh ta bắt đầu kể với tôi rằng khi còn bé anh ta từng bị lạm dụng ra sao, rằng chẳng ai muốn có anh ta như thế nào. Anh ta kể với tôi một số chi tiết cực kỳ riêng tư về cuộc đời mình, một số chi tiết trong đó nghe rất đau xót. Một số người lớn trong các gia đình anh ta được thu xếp cho sống chung hẳn đã…” Fauke nhún vai
“Cùng đi dạo đi,” ông nói, “Nghe nói tiết trời bên ngoài đẹp lắm.”
Họ cùng đi bộ lên phố Vibes đến Stenspark, nơi những bộ bikini đầu tiên đang được trưng bày. Và một người hít phải chất độc của keo dán đi tha thẩn khỏi nơi trú ẩn của mình trên đỉnh đồi, như thể anh ta vừa khám phá ra hành tinh Trái Đất.
“Tôi không biết nguyên nhân vì sao, nhưng đêm ấy anh ta như thể là người khác!” Fauke nói. “Rất lạ kỳ, nhưng điều lạ lùng nhất đó là hôm sau anh ta lại hành xử như thể đã quên hết cuộc đối thoại chúng tôi đã có.”
“Ông nói rằng hai người không thân thiết lắm, nhưng ông đã kể cho ông ta nghe một số trải nghiệm của mình trên Mặt trận phía Đông?”
“Vâng, dĩ nhiên. Trong rừng không còn nhiều thứ gì khác xảy ra. Chủ yếu chúng tôi chỉ đi quanh và để mắt tới quân Đức. Nên trong khỉ chúng tôi chờ đợi thì có khá nhiều câu chuyện dài.”
“Ông có nói nhiều về Daniel Gudeson không?”
Fauke chằm chằm nhìn Harry.
“Vậy cậu đã biết rằng Even Juul bị ám ảnh về Daniel Gudeson à?”
“Vào lúc này tôi chỉ đang suy đoán thôi!” Harry đáp.
“Phải, tôi đã nói rất nhiều về Daniel,” Fauke nói. “Daniel Gudeson, cậu ta giống như một huyền thoại vậy. Rất hiếm gặp được một tâm hồn tự do, mạnh mẽ và vui vẻ như cậu ta. Và Even rất thích thú những câu chuyện đó. Tôi đã phải kể đi kể lại, đặc biệt là câu chuyện về tên người Nga mà cậu ta đã vào vùng trung lập để chôn cất.”
“Ông ta có biết rằng trong chiến tranh Daniel đã đến Sennheim không?”
“Dĩ nhiên. Even nhớ được tất cả các chi tiết về Daniel mà tôi đang bắt đầu quên, và anh ta đã nhắc tôi nhớ. Vì lý do nào đó, anh ta dường như đã đồng cảm hoàn toàn với Daniel, cho dù tôi khó mà hình dung ra được hai người nào khác nhau hơn. Một khi Even uống say, anh ta đề nghị tôi gọi anh ta là Uriah, giống hệt như Daniel đã làm. Và nếu cậu hỏi tôi, không phải là tình cờ khi vào cuối cuộc chiến anh ta chỉ để mắt đến nàng Signe Alsaker trẻ trung.”
“Ồ?”
“Khi anh ta phát hiện ra vụ án của vị hôn thê của Daniel Gudeson sẽ được đưa ra xử, anh ta đã đến tòa án ngồi đó cả ngày chỉ để nhìn cô ấy. Như thể anh ta đã quyết định từ trước rằng mình sẽ phải có được cô ấy.”
“Chỉ vì cô ta là người yêu của Daniel?”
“Cậu có chắc rằng điều này là quan trọng không?” Fauke hỏi, chân bước trên lối đi lên đồi nhanh đến mức Harry phải rảo chân nhanh hơn mới theo kịp.
“Chắc chắn.”
“Tôi không chắc liệu có nên nói điều này không, nhưng cá nhân tôi tin Even Juul yêu thích huyền thoại về Daniel Gudeson hơn là anh ta có bao giờ yêu Signe Juul. Tôi chắc chắn rằng sự ngưỡng mộ của anh ta đối với Gudeson là nhân tố góp phần mạnh mẽ vào việc anh ta không tiếp tục học y khoa sau chiến tranh, mà thay vào đó là học sử. Cũng tự nhiên thôi, anh ta học chuyên sâu về lịch sử Na Uy bị chiếm đóng và những người lính Na Uy tại Mặt trận phía Đông.”
Họ đã lên đến đỉnh đồi, Harry lau giọt mồ hôi trên trán. Fauke gần như hết hơi.
“Một trong những lý do Even Juul tự khẳng định mình như một sử gia nhanh chóng như thế, đó là vì với tư cách một cựu chiến binh Kháng chiến, anh ta là một công cụ viết sử hoàn hảo mà các nhà chức trách cảm thấy Na Uy hậu chiến xứng đáng có được. Bằng cách giữ kín chuyện hợp tác rộng rãi với quân Đức mà tập trung vào một ít kháng cự đã có. Chẳng hạn, Juul dành đến năm trang giấy mô tả vụ chìm tàu Blucher vào đêm dẫn đến ngày 9 tháng Tư trong sách sử của mình(44) , nhưng anh ta âm thầm làm ngơ thực tế là những vụ truy tố gần 100.000 người Na Uy đang được xem xét tại các phiên tòa. Và chuyện đó đã thành công. Những chuyện bịa đặt về dân chúng Na Uy cùng nhau sát cánh chiến đấu chống chủ nghĩa Phát xít vẫn tồn tại đến ngày nay.”
“Có phải đó là những gì ông sẽ viết trong cuốn sách của mình không, Fauke?”
“Tôi chỉ đang cố gắng kể sự thật thôi. Even biết rằng những gì anh ta viết, nếu không phải nói dối thì cũng là xuyên tạc sự thật. Có lần chúng tôi đã nói về chuyện này. Anh ta tự bào chữa mà nói rằng điều đó phục vụ mục đích đưa mọi người xích lại gần nhau. Điều duy nhất anh ta chẳng buồn đưa vào ánh sáng hào hùng đáng thèm muốn là việc nhà vua bỏ trốn tìm tự do. Anh ta không phải là người duy nhất trong lực lượng Kháng chiến cảm thấy bị bỏ rơi vào năm 1940, nhưng tôi chưa từng gặp bất kỳ ai kết tội một chiều như Even, ngay cả những người lính trên mặt trận. Hãy nhớ rằng trong suốt cuộc đời mình, anh ta luôn bị những người mình tin tưởng và yêu thương bỏ rơi. Tôi nghĩ anh ta căm thù từng người một trong số những kẻ đã bỏ sang London, đến tận xương tủy. Thật đấy.”
Họ ngồi xuống một chiếc ghế dài, nhìn xuống nhà thờ Fagerborg, các mái nhà của Pilestredet dẫn xuống thành phố, và con vịnh hẹp Oslo màu xanh đang lấp lánh đằng xa.
“Tuyệt đẹp,” Fauke nói. “Đẹp đến mức đôi khi có thể xứng đáng để chết vì nó.”
Harry cố gắng thu nhận hết tất cả, để sắp xếp lại cho thích hợp. Nhưng vẫn còn thiếu một chi tiết nhỏ.
“Even đã bắt đầu học y khoa ở Đức trước chiến tranh. Ông có biết là tại đâu ở Đức không?”
“Không,” Fauke đáp.
“Ông có biết ông ta có ý định theo chuyên môn nào không?”
“Có, anh ta có nói với tôi rằng mình mơ ước theo bước chân người cha nuôi nổi tiếng của anh ta và cha của ông ta.”
“Và họ có nổi tiếng vậy không?”
“Cậu không biết về các thầy thuốc họ Juul sao? Họ là những bác sĩ phẫu thuật.”