Mọi chuyện bắt đầu vào ngày thứ Năm của tuần thứ ba của tháng 11, đúng vậy, đó là ngày Lễ Tạ Ơn của nước Mỹ; còn ngày hôm sau, thứ Sáu, thường được gọi là Ngày thứ Sáu Đen tối (Black Friday), là lúc mà các cửa hàng đồng loạt giảm giá. Do một năm chỉ có một dịp giảm giá như thế này mà có hàng nghìn người đã kéo nhau đến trước các cửa hiệu bán lẻ mà giăng lều, trải nệm nằm xếp hàng, chờ tới lúc mở cửa thì lao vào gom được bao nhiêu hàng hay bấy nhiêu.
Nhưng Ngày Thứ Sáu Đen Tối hôm đó đã diễn ra theo cách không bình thường: tới tận mười giờ sáng mà các cửa hàng vẫn chưa mở cửa, còn những người đang trùm chăn ngủ từ tối qua thì dù ai lay gọi mãi vẫn không chịu tỉnh dậy.
Gilbert.N.Reed, lúc đó đang là sinh viên cao học, được nghỉ vài ngày bèn về thăm gia đình và cô bạn gái mà anh đã đính hôn từ năm ngoái. Hôm đó anh đang đứng chờ trước cửa hàng BestBuy, với ý định sẽ giành mua cho bằng được một cái tivi 72 inch về thay cho cái vừa bị đứa cháu họ làm hư vào tháng trước. Anh đứng chờ tới hơn mười giờ mà không thấy tiệm mở cửa, lại thấy những người xếp hàng phía trước anh đang nháo nhào hoảng loạn thì anh cũng chột dạ mà lấy điện thoại gọi cho bạn gái mình. Sau đó anh gọi cho cha mẹ, cho anh em họ, những người bà con, nhưng không ai bắt máy cả.
Anh hốt hoảng và lên xe rồi phóng về nhà ngay, trên đường đi thì thấy vắng tanh không có bóng dáng chiếc xe nào càng làm anh lo lắng hơn. Anh về nhà, mở cửa vào trong thì thấy đám anh em con cô chú mình đang nằm la liệt từ trên ghế sofa tới xuống sàn nhà, kết quả của việc uống quá đà vào tối qua (Lễ Tạ Ơn thường là lúc các gia đình họp mặt và tổ chức ăn uống). Anh bước lên lầu, nhìn vào một căn phòng thì thấy cha mẹ mình đang ngủ yên bình trên giường, ở phòng khác thì cô chú cũng ngủ say như vậy.
Không muốn làm phiền họ, anh xuống dưới lầu và gọi đám anh em của mình dậy, nhưng gọi mãi không thấy ai tỉnh. Anh tiến tới xem xét thì thấy ai cũng đang thở đều đều và ngủ say như chết, khuôn mặt họ thì nhìn mãn nguyện như đang chìm trong giấc mơ đẹp đẽ nào đó. Gilbert gọi mãi không được thì đứng dậy bấm điện thoại gọi Cảnh sát nhưng tổng đài lại báo đang bận. Anh liền chạy qua nhà cô bạn gái nhưng gọi mãi cũng không thấy ai ra mở cửa nên anh buồn bã quay về nhà.
Bốn giờ chiều, cơ thể anh bắt đầu mệt mỏi vì thức cả đêm qua, hai mí mắt anh bắt đầu nặng trĩu. Anh mở điện thoại lên xem thì thấy không có tin tức nào mới cả. Anh kiểm tra facebook thì cũng chẳng thấy có chuyện gì khác lạ, thế là anh cứ lướt điện thoại, mãi cho tới khi hai mắt dần nhắm lại và anh chìm vào giấc ngủ từ lúc nào không hay.
Cho tới mười ngày sau…
Gilbert giật mình tỉnh dậy, thấy cơ thể mệt mỏi vô cùng, hai tay như chả còn sức lực gì. Anh tính đứng dậy khỏi ghế sofa thì chợt té lăn ra sàn nhà: hai chân anh đã tê cứng đến không còn cảm giác nữa. Anh lăn lộn, gào thét gọi đám anh chị em đang nằm ngủ, nhưng họ vẫn trơ trơ ra không tỉnh dậy. Thế là anh bò, lết tới chỗ từng người, để rồi bàng hoàng nhận ra tất cả bọn họ đều đã lạnh cứng và không còn thở nữa!
Anh gào khóc lớn hơn thì nghe có tiếng rên rỉ trên lầu. Anh lại lết cơ thể mình lên từng bậc cầu thang, đầu gối anh cạ vào những thanh gỗ mục đến trầy xước và bật máu. Anh bò lên tầng trên thì thấy người cô mình đang nằm rên rỉ yếu ớt trên giường, bên cạnh là chú anh, đã chết cứng từ bao giờ. Anh lớn tiếng bảo cô hãy bình tĩnh rồi lết qua phòng tiếp theo tìm cha mẹ mình, thì ôi thôi, họ đã không còn trên thế gian này nữa. Đầu óc anh rối loạn lên, anh bắt đầu thấy mọi thứ quay cuồng và rồi anh đổ sụp xuống cạnh giường cha mẹ mình. Anh gào khóc lớn hơn, cốt để cho hàng xóm nghe thấy, nhưng chả có ai đáp lại lời anh cả. Vài tiếng sau, anh bình tĩnh lại và bấm điện thoại gọi cảnh sát thì tổng đài vẫn đang bận, lúc này chân anh cũng đã có thể bước lại, anh đi qua phòng bên và nói cô mình hãy cố chịu đựng, để anh tìm người giúp đỡ. Anh bước xuống lầu và mở cửa ra đường thì thấy phố xá vắng tanh, những đợt gió mùa đông lạnh lẽo thổi qua khiến anh thoáng rùng mình.
Khi tiếng gió đã ngưng, không gian bèn trở nên yên tĩnh đến lạ lùng. Lúc này đây, Gilbert mới nghe thấy những tiếng khóc phát ra từ các căn nhà bên cạnh. Cả con phố này, cả thành phố này, cả quốc gia này, toàn thế giới này đều tràn ngập tiếng khóc. Ngày hôm đó là ngày 8 tháng 12 năm 2013, cách ngày Lễ Tạ Ơn vừa đúng mười ngày. Mười ngày, tất cả người trên thế giới đều chìm vào một giấc ngủ sâu đến lạ lùng, để rồi khi tỉnh dậy, thì thế giới chỉ còn là một đống điêu tàn, đổ nát.
Hai năm sau.
Tiếng Cơ Trưởng thông báo rằng máy bay sắp hạ cánh, yêu cầu các hành khách tắt hết các thiết bị điện tử và thắt dây an toàn vào. Các tiếp viên lúc này bèn đi đến từng hàng ghế, đánh thức cách hành khách và nhắc nhở họ về những quy định an toàn:
“Xin quý khách gập bàn ăn lại và tạm thời đừng mở laptop ạ.”
“Được rồi.” Gilbert nhoẻn nụ cười với cô gái, để lộ ra hàm răng trắng sáng của mình.
Anh cất laptop vào trong balo rồi quay sang nhìn các hàng khách khác đang lục đục tỉnh dậy. Anh gọi vị khách người Hàn Quốc mà anh đã làm quen trong lúc chờ thủ tục: “Tới rồi đấy!”
“Tôi biết rồi, cám ơn anh.” Vị khách người Hàn đáp lại và quay sang vị khách người Việt ngồi cạnh ông ta: “Kéo cửa sổ ra cho tôi nhìn tí nào.”
Vị khách người Việt khẽ ho một tiếng rồi uể oải kéo cửa sổ qua một bên, Gilbert thấy thế cũng rướn người cố nhìn qua cửa sổ thì thấy đồng ruộng, nhà cửa đang dần hiện ra sau những đám mây. Rồi vị khách người Việt chợt run lên và ho dữ dội hơn, vị khách người Hàn mới đập vai anh này, bảo đã về nhà rồi mà vẫn bệnh sao?
“Vì về nhà rồi mới bệnh đấy.” Vị khách người Việt nói từng tiếng khó nhọc, “Tôi tuy sinh ra ở đây nhưng không bao giờ chịu được cái nóng bức thế này, tôi thích sống ở vùng lạnh giá hơn.”
“Chả trách anh cứ phải khoác cái áo khoác dày cộm đó.” Gilbert nói chen vào.
Sau khi máy bay hạ cánh, lấy hành lý xong rồi thì Gilbert đứng vào hàng chờ thủ tục nhập cảnh. Anh thấy phía trước mình vài người là vị khách Hàn Quốc cùng người Việt kia. Nhân viên hải quan là một nam thanh niên trong bộ đồng phục xanh nhạt và cái mũ đội lệch sang một bên, khuôn mặt chán chường, nhìn không mấy thân thiện lắm.
Tới phiên mình, vị khách Hàn Quốc đến đưa hộ chiếu cho người nhân viên, rồi nói vài câu gì đó mà thấy người nhân viên không đáp, khuôn mặt vẫn trơ trơ ra. Người Hàn bèn quay lại, thì thầm vào tai vị khách người Việt vài câu, rồi anh này bước lên nói gì đó với nhân viên hải quan. Xong thì khuôn mặt anh nhân viên chợt tươi tỉnh lên và nụ cười bắt đầu hiện trên môi. Anh ta vui vẻ đóng dấu cho vị khách người Hàn, rồi người Việt, rồi tới những vị khách sau đó nữa, với một thái độ hòa nhã và thân thiện khác hẳn lúc đầu.
“Ông đã nói gì với người đó vậy?” Gilbert hỏi vị khách người Hàn khi họ đang hướng tới cửa ra.
“Tôi bảo là anh nên cười lên để cho các vị khách khác thấy được cái thân thiện cửa xứ sở này, để sau này họ có về nước rồi thì vẫn còn quay lại chứ.”
“Chỉ vậy thôi à?”
“Chỉ vậy thôi!”
“Ông quả là có tài thuyết phục người khác nhỉ?” Gilbert nói, vị khách người Hàn mỉm cười xong chợt bước chậm lại, quay sang bảo người Việt rằng: “Qua khỏi cánh cửa phía trước là tôi đã làm xong thỏa thuận rồi đấy.”
“Cảm ơn ông nhiều lắm, mọi chuyện bây giờ hãy để tôi tự giải quyết cũng được.” Người Việt đáp.
“Không, anh hiểu lầm rồi. Ý tôi là qua khỏi cánh cửa kia thì thỏa thuận ban đầu giữa chúng ta coi như xong, nhưng nếu anh còn cần giúp đỡ chuyện gì thì anh biết nên tìm tôi ở đâu rồi đấy.”
“Vâng, xin tạm biệt!” Người Việt đáp và ho một tiếng, bước vội về phía cửa ra.
“Tôi thấy ở ngoài nắng gắt lắm mà anh ta vẫn không chịu cởi áo khoác ra sao?” Gilbert hỏi.
“Đất nước này đầy rẫy những chuyện lạ lùng mà, rồi anh sẽ thấy.”
Gibert gật gù cười, rồi khi ra khỏi cửa, anh bắt tay người Hàn và chào tạm biệt, “Hẹn gặp lại.”
Người Hàn quốc bấy giờ đứng giữa đám đông hành khách và đưa mắt nhìn xung quanh, cho tới khi ông ta bắt gặp một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, thân hình cao lớn, khỏe mạnh, mặc bộ vét màu xám có vẻ hơi rộng, cổ áo thắt cà vạt xanh, đi giày tây sáng bóng.
Người Hàn tiến lại nhìn cho kĩ người đàn ông thì thấy anh ta có khuôn mặt vuông chữ điền, xương quai hàm cao, cặp mắt hơi hí, chân mày đậm mà thanh tú, tóc chải rẽ ngôi nhìn óng mượt. Người đàn ông trẻ dùng tay đầy cặp kính đen trên sống mũi lên, ngước nhìn người Hàn rồi hỏi: “Ngài Kim? (Mr. Kim?)”
“Vâng, tôi là Kim Woosung đây!” Người Hàn nở nụ cười đáp lại.
“Tôi là Hà Trí Đức, tôi đến đón ngài đây.”
“À! Phiền đến giám đốc phải ra đón thế này...”
“Không có gì phiền đâu ạ, chả là tôi hay đưa đón nhiều người thân ra sân bay nên ít nhiều cũng có kinh nghiệm mà.”
“Được rồi, chúng ta đi thôi chứ?” Người Hàn hỏi, Đức bèn sấn lại, tính xách va li giùm nhưng ngài Kim bảo rằng ông ta tự mang được, không cần phiền anh.
Vừa bước qua khỏi cửa, ngài Kim đã cảm nhận không khí nóng bức đặc trưng của xứ sở này, khiến ông phải đưa tay lên nới lỏng cà vạt của mình ra. Đức lúc này đứng nhìn xung quanh, xong thì chạy lại gần một thanh niên trẻ tuổi, hỏi đã có xe chưa?
“Xong ngay!” Người thanh niên trẻ đáp và huýt sáo, ngoắc một chiếc taxi lại.
“Đây là Hon, nhân viên tài chính của ngân hàng, ảnh cùng tôi đi đón ngài đấy ạ.” Đức giới thiệu.
Ngài Kim bắt tay Hon thật chặt và Hon mỉm cười đáp lại. Hon năm nay hai mươi sáu tuổi, thân hình gầy nhom như cây tre, tóc cắt ngắn kiểu đầu đinh, nói giọng miền Tây.
“Tôi đã đặt phòng theo đúng yêu cầu của ngài rồi: từ khách sạn đến ngân hàng chỉ mất khoảng mười phút đi bộ thôi.” Đức nói khi cả ba người đã ngồi trên xe, Đức và ngài Kim ngồi ghế sau để nói chuyện, Hon thì ngồi trước “chỉ đường” cho bác tài, vì lo rằng tài xế thấy khách nước ngoài đến sẽ chạy đường vòng để có dịp “chặt chém” giá taxi.
“Anh có đặt phòng xa hơn chút cũng không sao, tôi thích đi bộ lắm.” Ngài Kim nói và nhìn qua cửa kính, thấy đường sá nhộn nhịp và đông đúc, tiếng còi xe cứ chốc chốc lại vang lên.
Sau khi về khách sạn, nhận phòng và thay bộ vest khác rồi, ngài Kim cùng Đức, Hon đi bộ đến ngân hàng Wilshire, nằm ngay góc ngã tư đường Ngô Quyền – Ba Tháng Hai. Đức vào trước, gọi các nhân viên của mình ra đứng xếp hàng rồi lần lượt giới thiệu từng người:
Đầu tiên là Kiệt, nhân viên hỗ trợ khách hàng, dáng người cao to lực lưỡng, tóc xoăn, mắt hơi nhỏ và nói giọng ồm ồm. Hạnh, nhân viên kế toán kiêm quản lý nhân sự, dáng người thấp bé nhưng cân đối, mang kính gọng to tròn và tóc buộc kiểu đuôi ngựa. Ngọc, nhân viên phòng giao dịch, thân hình hơi mủm mĩm và nói chuyện có hơi khiếm nhã, tóc xõa dài. Chú Tiến bảo vệ, khuôn mặt khắc khổ, thân hình nhỏ con nhưng săn chắc khỏe mạnh, nước da ngăm đen. Châu, nhân viên giao dịch, nhỏ con và nhí nhảnh, luôn luôn thân thiện với mọi người. Trinh, người phụ nữ lớn tuổi nhất trong chi nhánh; là nhân viên hỗ trợ khách hàng kiêm quản lý rủi ro kiêm thêm vài chức danh khác, nói chuyện khá rụt rè. Hon, nhân viên tư vấn tài chính, và Khang, cũng là nhân viên tài chính, bạn thân của Hon. Trái ngược với bạn mình, Khang nhìn hơi thấp và thừa cân, tóc ngắn chải rẽ ngôi và cặp kính dày cộm.
Ngài Kim bảo Hon viết tên từng người ra cho ngài dễ nhớ, xong rồi vừa lẩm nhẩm đọc vừa nhìn khuôn mặt từng người một. Tiếp đó ngài giới thiệu bản thân là tổng giám đốc ngân hàng Wilshire, chi nhánh tại Hoa Kỳ, hôm nay tới Việt Nam để đánh giá tiến độ công việc tại chi nhánh này, và nếu thấy mọi chuyện tốt đẹp thì sẽ kiến nghị mở rộng thêm vài chi nhánh khác. Nhân viên nghe nói xong thì nửa mừng nửa lo lắng nhưng ngài Kim nhanh chóng trấn an họ.
Được vài phút, ngài Kim thấy khẩu ngữ của mình có vẻ hơi khó nghe nên bảo Hon làm “thông dịch” giúp. Hon vui vẻ gật đầu nhận lời và ngài Kim nói thế nào thì anh đều nói y chang như vậy, nhưng theo cách hài hước của mình, do vậy mà sự căng thẳng trên mặt các nhân viên đều tan biến mà thay bằng những tràng cười thoải mái. Đức đứng kế bên, cứ lâu lâu lại nhắc Hon phải nghiêm túc, ngài Kim có vẻ hiểu được chuyện gì đó nên bảo Đức đừng bận tâm, các nhân viên tâm trạng vui vẻ thì mới làm việc tốt được.
Sau nửa tiếng, “buổi gặp mặt” cũng kết thúc và các nhân viên lục đục quay về vị trí của mình. Khi đó có một thanh niên trẻ, bận áo sơ mi trắng, quần tây đen, khuôn mặt lo âu, đẩy cửa vào ngân hàng rồi tròn mắt nhìn đám người:
“Tôi đến không đúng lúc à?”
“Anh đến đúng lúc lắm!” Khang bước lại chào người khách, rồi quay sang nói với Đức: “Đây là anh Minh, khách hàng đang muốn mua nhà nên đến tìm chúng ta để hỏi về thủ tục vay tiền ấy.” Rồi Khang giới thiệu ngài tổng giám đốc vừa từ Mỹ tới và dẫn Minh lên lầu.
Nguyên tòa nhà ngân hàng Wilshire này có bốn tầng tất cả: tầng trệt là nơi đặt phòng giao dịch và bàn làm việc của nhân viên tư vấn khách hàng. Tầng hai thì gồm ba căn phòng nhỏ dành cho nhân viên tài chính là Hon và Khang; tầng ba thì có phòng giám đốc – Đức; và phòng của nhân viên kế toán – Hạnh – kiêm phòng lưu giữ hồ sơ của các nhân viên. Còn tầng bốn là phòng họp chính, đứng từ đó có thể nhìn bao quát cả con đường Ba Tháng Hai bên dưới.
Khang dẫn Minh lên tầng hai, mở cửa mời Minh vào trong, ngồi xuống rồi rót một ly nước, “Cám ơn. Tôi không khát.” Minh nói.
“Tôi rót cho tôi mà.” Khang nói và uống hết ly nước, khiến Minh phì cười, xong thì khuôn mặt lại nhăn nhó như cũ.
“Anh có việc gì thì cứ nói ra, cứ như vậy tôi không giúp được đâu.”
“Anh có nhớ căn nhà tôi tính mua không?”
“Có chứ! Chung cư Lũy Bán Bích quận Tân Phú, tầng mười bốn, phòng số tám phải không? Nó làm tôi nhớ tới bộ phim 1408 (Bộ phim kể về một nhà văn chuyên viết sách kinh dị đã phải trải qua một giờ đồng hồ ám ảnh với những kí ức ma mị do chính căn phòng quỷ ám này tạo ra) ấy.”
“Tôi bây giờ đang gặp phải một chuyện hơi kì lạ nên mới tìm tới anh đây.” Minh đáp và lấy trong cặp ra một bìa hồ sơ, rồi lại mở hồ sơ lấy từ trong đó ra một tờ giấy, để trước mặt Khang: