Tuyển Tập Tiểu Thuyết Trinh Thám Lôi Mễ

Quyển 2-5: Đề thi đẫm máu



Chương 5

Một tuần trước. Lúc này là giờ ngủ trưa, hành lang trong thư viện vô cùng yên ắng. Một cậu thanh niên thận trọng bước lên cầu thang, dựa vào lan can, dần dần điều tiết hơi thở của mình.
Hành lang trông có vẻ rất dài. Cậu ta chỉnh sửa cặp sách, dường như đã hạ quyết tâm, bước gấp gáp tới trước một cánh cửa, nhìn xung quanh, không có ai. Cậu nhìn lên tấm biển trên cửa: “Phòng tư vấn tâm lý”. Cậu hít thở thật sâu, giơ tay gõ cửa.

Tiếng gõ cửa vang lên chói tai giữa hành lang vắng lặng. Không ai trả lời. Cậu lại gõ lần nữa, vẫn không ai trả lời. Cậu ghé sát tai vào cửa, bên trong im ắng không chút động tĩnh. Cậu thở hắt ra, nét mặt không rõ là thất vọng hay nhẹ nhõm. Cậu định quay người bước đi, cánh cửa chếch đối diện lại chợt bật mở, một người đàn ông thò đầu ra.

“Cậu tìm ai?”

Cậu thanh niên giật mình, cậu chỉ tay vào cánh cửa bị khóa chặt, nhưng không thốt ra được tiếng nào.

Người đàn ông bước tới, nhìn cánh cửa đó: “Tìm thầy Kiều à? Thầy ấy không có ở đây.” Anh ta nhìn cậu thanh niên: “Cậu tìm thầy ấy có việc à?”

“Tôi… không có gì!”

Người đàn ông cười.

“Có việc thì hãy nói ra, nếu không, kìm nén trong lòng, dễ gây bệnh lắm.”

Cậu thanh niên ngước lên nhìn anh ta. Đầu tóc gọn gàng, đôi mắt thân thiện, hàm răng trắng muốt, khi mỉm cười, khóe miệng hơi cong lên.

“Tôi, có đôi khi tôi cảm thấy sợ hãi.”

Người đàn ông khẽ cười, “Ai cũng đều có lúc cảm thấy sợ hãi. Có thể nói cho tôi biết, cậu sợ điều gì không?”

Cậu thanh niên cúi đầu, mím chặt đôi môi.

Người đàn ông thấy cậu không có ý định nói ra, cũng không miễn cưỡng.

“Cậu có thể khắc phục loại cảm giác này.” Anh ta nhẹ nhàng đặt tay lên vai cậu thanh niên: “Ví dụ, cậu có thể tưởng tượng ra mọi tình huống nguy hiểm, hãy để tình huống nguy hiểm nhất xuất hiện trước tiên, đồng thời lặp đi lặp lại, dần dần, cậu sẽ cảm thấy không hề sợ hãi trước bất cứ tình huống nguy hiểm nào. Tự nhiên, cậu sẽ không còn sợ hãi cái việc mà cậu vẫn luôn sợ hãi đó nữa.”

Cậu thanh niên ngẩng đầu lên, anh ta chớp chớp đôi mắt với cậu thể hiện sự thân thiện, dường như đang nói: hãy tin tôi!

Đúng lúc đó, tiếng chuông vào học chợt vang lên trong hành lang. Cậu thanh niên giật mình, cậu vội vàng cảm ơn người đàn ông, rồi quay người bước đi.

***

Trong cuộc họp phân tích tình hình vụ án, Thái Vĩ đã hội báo tỉ mỉ về tình hình điều tra bước đầu của vụ án đột nhập giết người này.

Có tất cả hai nạn nhân. Người thứ nhất là Diêu Hiểu Dương, nữ giới, 32 tuổi, đã ly dị, là giảng viên Học viện Sư phạm thành phố J. Hai hôm trước khi xảy ra vụ án, cô ta vừa mới thuê phòng 401, đơn nguyên 2, tòa lầu 3, Vườn Quang Minh. Qua xem xét hiện trường, nạn nhân Diêu Hiểu Dương có lẽ vừa mới chuyển đến chính ngày hôm xảy ra vụ án, hơn nữa, lúc đó cô đang sắp xếp đồ. Cửa nhà không có dấu vết bị cậy phá, tổ chuyên án đã từng nghĩ đến khả năng người quen gây án, nhưng sau khi đối chiếu dấu vân tay lấy được tại hiện trường với chủ nhà và những người thân thiết với nạn nhân, đã loại bỏ khả năng này. Suy đoán bước đầu, sau khi hung thủ vào được trong phòng, đã giằng co quyết liệt với Diêu Hiểu Dương, cuối cùng, hung thủ đã lấy sợi dây thừng nilon để trên bàn ở phòng khách (Diêu Hiểu Dương đã dùng sợi dây thừng nilon này để buộc hành lý), thít chặt cổ nạn nhân cho đến chết. Sau đó, hung thủ lấy một con dao thái trong nhà bếp mổ bụng nạn nhân, hành động này gần như giống y như mấy vụ án trước. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là, hung thủ không uống máu nạn nhân giống như các vụ án trước. Qua phân tích, hung thủ không làm như vậy, vì đúng lúc đó đã phát hiện ra nạn nhân thứ hai.

Nạn nhân thứ hai tên Đồng Hủy, nữ giới, 6 tuổi, sống tại phòng 402, đơn nguyên 2, tòa lầu 3, Vườn Quang Minh. Hôm xảy ra vụ án, bố mẹ Đồng Hủy đều đi làm tại công xưởng, trong nhà chỉ có bà ngoại chăm sóc cô bé. Theo lời kể của bà ngoại cô bé, hôm xảy ra vụ án, bà và Đồng Hủy sau khi ăn trưa xong bèn đi ngủ trưa, bà mơ màng nhận ra Đồng Hủy chạy đi chơi, bà ngoại liền dặn bé, “Đừng đi chơi xa quá”, rồi lại ngủ tiếp. Khi cảnh sát điều tra hiện trường vụ án căn hộ bên cạnh, bà mới tỉnh dậy. Cũng chính lúc đó, bà không thấy Đồng Hủy đâu cả. Còn về việc đã có tiếng động gì trong căn hộ bên cạnh trong khoảng thời gian đó, bà không hay biết gì. Qua phân tích, rất có khả năng, khi Đồng Hủy chạy đi chơi hoặc chạy về nhà, đã vô tình gặp phải hung thủ, và hung thủ đã thay đổi ngay kế hoạch, quyết định chọn cô bé làm đối tượng để hút máu. Qua phân tích hiện trường thứ nhất (phòng 401, đơn nguyên 2, tòa lầu 3, Vườn Quang Minh), hiện trường thứ 2 (trước đây là công xưởng kính Đại Minh) và báo cáo kiểm tra tử thi, có lẽ, hung thủ sau khi dùng sợi dây thừng này thắt cổ Đồng Hủy cho hôn mê (trong quá trình này, một chiếc cúc áo trên váy Đồng Hủy mặc đã bị rơi ở cửa ra vào), lấy một chiếc túi để đồ trong phòng (cỡ lớn, kẻ carô màu vàng), sau đó nhét Đồng Hủy vào đó, rời khỏi hiện trường thứ nhất. Hung thủ sau khi đi bộ 40 phút về hướng đông nam, đã giết hại Đồng Hủy tại công xưởng kính Đại Minh cũ bên vệ đường, sau đó xẻ bụng Đồng Hủy, uống khoảng 200 cc máu của nạn nhân.

Không thu được manh mối có giá trị sau khi phỏng vấn những người sinh sống gần khu vực Vườn Quang Minh, bởi vì, lúc xảy ra vụ án, phần lớn mọi người trong khu đều đang đi làm tại công xưởng. Cho nên, ngay giữa ban ngày ban mặt, hung thủ ngang nhiên đem nạn nhân đi mà không bị ai để ý. Khi phỏng vấn những người trên đường đi từ hiện trường thứ nhất đến hiện trường thứ hai đã thu được manh mối quan trọng: Qua lời kể của một chủ quán ăn nhỏ ven đường trên đường Hồng Viễn (quán ăn này cách hiện trường thứ 2 khoảng 3000 mét), hôm đó, có một người đàn ông đến quán ông mua một bình nước khoáng. Người đàn ông này cao khoảng 1m72, rất gầy, tóc tai rũ rượi, thần sắc lo lắng bất an, đem theo một chiếc túi đựng đồ cỡ lớn. Hiện nay, đã phác họa chân dung nhân vật theo lời mô tả của chủ quán, đồng thời tiến hành ra lệnh truy nã người đàn ông này.

Sau khi tan cuộc họp, Thái Vĩ đang định đi, Cục trưởng gọi anh lại:

“Tiểu Thái, cậu ở lại một chút!”

Cục trưởng người to béo, đang cố gắng thay đổi tư thế trên chiếc ghế da xoay, thấy Thái Vĩ vẫn đang đứng, liền huơ huơ tay ra hiệu cho anh ngồi xuống. Ông xoay cốc trà trong tay, lên tiếng hỏi: “Nghe nói, cậu để một sinh viên giúp cậu phá án?”

“Vâng ạ. Đinh Thụ Thành, người của Sở Công an thành phố C đã giới thiệu cho em, nghe nói rất tài giỏi.”

“Thế cậu thấy sao?”

Thái Vĩ cân nhắc câu chữ: “Con người này khá thú vị. Chúng em đã phát hiện được ra nạn nhân thứ hai qua sự chỉ dẫn của cậu ta. Ngoài ra, sự miêu tả nghi phạm của cậu ta cơ bản đồng nhất với những điều ông chủ quán nói. Cậu ta nói, mấy hôm nữa sẽ liên hệ với em, em cũng muốn nghe ý kiến của cậu ta về những vụ án này.”

“Không!” Cục trưởng giơ ngón tay trỏ lên, lắc lắc ngón tay, giọng kiên quyết: “Không được để cái cậu được gọi là thiên tài đó tham gia vào vụ án này. Không chỉ là vụ án này, mà sau này không được dùng đến biện pháp này nữa.”

“Tại sao ạ?” Thái Vĩ vô cùng kinh ngạc.

“Chuyện đó đã khiến chúng ta thiệt thòi vẫn chưa đủ sao!” Sắc mặt Cục trưởng trở nên rất khó coi, giọng cũng cao vút lên.

Thái Vĩ càng không thể hiểu nổi, anh ngẩn người nhìn Cục trưởng. Cục trưởng đập đập vào sau gáy mình, hình như chợt nhớ ra điều gì, bèn hỏi anh: “Cậu đến đây bao lâu rồi?”

“Bốn năm ạ!”

“Chẳng trách,” sắc mặt Cục trưởng dịu đi đôi chút, “Người không biết, không có tội. Nhưng, lời tôi nói, cậu phải ghi nhớ cho thật kỹ. Đây là mệnh lệnh.” Nói xong, ông hất hất tay ra hiệu cho Thái Vĩ đi.

Thái Vĩ trở về phòng làm việc, vô cùng băn khoăn, đang định tìm đồng nghiệp đã công tác ở đây lâu năm hỏi cho rõ tình hình, thì điện thoại chợt vang lên. Là Phương Mộc gọi.

***

Qua những tài liệu mà cậu đọc được trong lần gặp đầu tiên với Thái Vĩ và việc tận mắt quan sát hiện trường vụ án thứ tư, Phương Mộc đã hình thành kết luận bước đầu về tên sát thủ liên hoàn hút máu người này.

Nếu như nói các sát thủ liên hoàn thường hay để lại “ký hiệu” của riêng mình nơi hiện trường vụ án, vậy thì, ký hiệu của kẻ hút máu này là gì?

Khỏi cần băn khoăn, gọi tên sát nhân này là quỷ hút máu, vì ký hiệu hành vi của hắn chính là mổ bụng nạn nhân, rồi uống máu của họ. Rõ ràng, kiểu hủy hoại thi thể này không phải để phát tiết sự phẫn nộ hay che giấu thân phận của nạn nhân, mà là xuất phát từ một loại nhu cầu đặc biệt.

Vậy thì, loại nhu cầu này là gì?

Uống máu của nạn nhân, có thể được hiểu là một kiểu “bổ sung” cho lượng máu trong chính cơ thể mình. Điều này có nghĩa là chắc chắn hung thủ thường nảy sinh cảm giác sợ hãi và lo lắng vì sự “thiếu” máu trong cơ thể mình. Nguyên nhân gây nên tâm lý này hiện chưa được làm rõ, nhưng có thể khẳng định được rằng, sự lo lắng và sợ hãi này đã đến mức vô cùng trầm trọng, nếu không, anh ta cũng không đến nỗi phải dùng đến hành vi giết người uống máu để giảm bớt loại tâm trạng này.
Tình trạng hiện trường vụ án cũng có thể chứng minh được cho kết luận này.

Nạn nhân đầu tiên bị giết khi cô vừa mới tan ca đêm. Khi cảnh sát đến, chiếc chìa khóa vẫn còn cắm trên ổ khóa. Có khả năng hung thủ đi theo cô vào trong khu nhà, sau đó, nhân lúc cô mở khóa liền ra tay, sau khi đập mạnh nạn nhân vào cửa, bèn bóp cổ cô đến chết, tiếp đến là mổ bụng nạn nhân, rồi uống thứ dung dịch hòa trộn giữa sữa và máu nạn nhân.

Nạn nhân thứ hai là một phụ nữ đang học thạc sĩ, hôm xảy ra vụ án, lẽ ra cô cần phải đến trường học. Hàng xóm lúc đi đổ rác phát hiện ra cửa phòng để mở, cô bị giết chết trong phòng khách, hung khí là chiếc lọ hoa được bày trên tủ giày.

Nạn nhân thứ ba là một phụ nữ thất nghiệp vừa mới trở về sau khi bán đồ ăn sáng ở chợ. Cô bị giết chết trong nhà trệt của mình. Trước tiên, hung thủ túm chặt tóc cô, đập mạnh vào lò bếp, sau đó cùng dây điện thắt chặt cổ cô cho đến chết, cuối cùng, uống thứ hỗn hợp giữa máu của cô và sữa đậu nành cô bán chưa hết.

Nạn nhân thứ tư là một cô giáo đã ly dị chồng. Hung thủ lấy một sợi dây thừng mà nạn nhân dùng để buộc hành lý thắt cổ cô cho đến chết. Khi đang định uống máu của nạn nhân, hắn ta chợt phát hiện ra đứa bé gái đang đi ở hành lang. Thế là, đứa bé trở thành vật hy sinh.

Nếu như không có hành vi ký hiệu “uống máu”, thì rất khó mà tưởng tượng nổi, bốn vụ án này là cùng một hung thủ. Thân phận và tuổi tác của nạn nhân khác biệt; địa điểm gây án lúc thì trong căn hộ, lúc thì ở nhà trệt; cách giết người lúc thì dùng sợi dây thừng thít cổ, bóp cổ, lúc thì lấy lọ hoa đập chết; còn dụng cụ mổ bụng thì đồng nhất: đều tìm thấy vật sắc tại hiện trường vụ án, sau khi dùng xong, đều để luôn lại hiện trường. Hơn nữa, hắn ta còn không hề cố ý tiêu hủy chứng cứ phạm tội: tại hiện trường, khắp nơi đều có dấu vân tay của hắn ta, thậm chí, còn không thèm đóng cửa mà đã bỏ đi ngay.

Đối với hiện trường này, Phương Mộc chỉ có thể nghĩ đến một cụm từ: Hỗn loạn.

Không hề chủ tâm chọn lựa nạn nhân; không đem theo công cụ gây án; không xóa dấu vết sau khi gây án.

Tên hung thủ này, nếu không phải là một người vô cùng cẩu thả, thì là một người tinh thần thường xuyên ở trong tình trạng hoảng loạn. Vậy thì, kiểu trở ngại về mặt tâm lý dẫn đến thần kinh hoảng loạn, rốt cuộc là có mối quan hệ mật thiết với máu như thế nào?

Phương Mộc gõ từ khóa “máu”, “trở ngại tinh thần” vào máy vi tính trong thư viện. Trên máy tính hiện ra thông tin: trong phòng đọc số 3 của thư viện có mấy cuốn sách về phương diện này. Phương Mộc ghi lại tên mấy cuốn sách đó, đi đến thẳng phòng đọc số 3.

Do Phương Mộc thường xuyên đến thư viện mượn sách, nên khá thân quen với mấy giáo viên ở đó. Hỏi han vài câu qua loa, Phương Mộc đưa tên sách cho thầy Tôn đang ca trực, hỏi thầy xem có thể tìm được những cuốn sách này ở đâu.

“Ồ?” Thầy Tôn nhìn tên các cuốn sách: “Chẳng phải em học ngành Luật sao, sao đây toàn là sách dành cho người học ngành Y, em nghiên cứu những thứ này làm gì vậy?”

“Em rảnh rỗi, muốn xem cho vui thôi.”

Thầy Tôn chăm chú nhìn cậu qua đôi kính trên sống mũi, mỉm cười:

“Trên giá sách giữa Z1 và Z3, chính là ở cái góc đó.”

Phương Mộc tìm thấy mấy cuốn sách đó theo sự chỉ dẫn của thầy Tôn. Trong khi làm thủ tục mượn sách, Phương Mộc tiện tay cầm một tờ báo để trên bàn, trong đó giới thiệu một vụ án đột nhập giết người mới xảy ra, cạnh đó còn có cả bức tranh vẽ chân dung nhân vật.

“Em nói xem, báo đăng như vậy, còn có cả lệnh truy nã, con quỷ hút máu này lại còn không mau chạy trốn sao?” Một cô giáo thấy Phương Mộc đọc báo, nói đầy cảm thán.

“Không đâu.” Phương Mộc không ngẩng đầu lên, buột miệng nói: “Loại người này thường không hay quan tâm đến tin tức truyền thông.”

“Ồ, thật sao?” Cô giáo đó chợt có hứng: “Sao em biết? Thầy giáo dạy à?”

“Ha… ha, em cũng chỉ đoán thôi.” Phương Mộc không muốn nói nhiều, nhận lấy mấy cuốn sách từ tay thầy Tôn, rồi bước nhanh ra khỏi thư viện.

Sau cả một ngày đóng cửa nhốt mình trong phòng, Phương Mộc gọi điện cho Thái Vĩ. Trước tiên, cậu hỏi về tình hình điều tra bệnh viện, Thái Vĩ trả lời cậu, do số lượng bệnh viện cần điều tra quá đông, nên cần chút thời gian, trước mắt vẫn chưa có manh mối nào đáng giá. Và vẫn đang tiến hành điều tra dò hỏi xung quanh hiện trường vụ án. Phương Mộc nói với Thái Vĩ, mình đã đọc một số sách về các căn bệnh về máu và trở ngại tinh thần, cậu cảm thấy, hung thủ rất có khả năng đã đến chữa bệnh hoặc xin được tư vấn ở bệnh viện tâm thần.

“Cho nên, nếu có thời gian, chúng ta hãy cùng nhau đến bệnh viện tâm thầm điều tra.” Phương Mộc ngừng lại giây lát: “Nhưng tốt nhất là phải nhanh lên, hung thủ chuẩn bị lại gây án.”

***

“Cậu đến rồi à?”

“Thầy rất bận phải không? Có làm phiền thầy không ạ?”

“Ha… ha, không có gì, vào đây ngồi!”

“Thầy đang đọc sách à?”

"À, đọc linh tinh thôi. Uống gì nhỉ? Trà hay cà phê?”

“Cà phê đi.”

“Tôi chỉ có cà phê tan thôi, có được không?”

“Cũng được!”

“Mà thôi, tôi thấy cậu nên uống nước trắng, cậu vốn ngủ không được ngon giấc.”

“Ha… ha, cũng được!”

“Cẩn thận, hơi nóng.”

“Cảm ơn. Ồ, thầy đọc sách phức tạp quá. Bệnh tật về máu và trở ngại tinh thần, Trở ngại tinh thần do tâm lý xã hội, cuốn này là The study on…”

“The study on agoraphobia - nghiên cứu chứng sợ hãi cuồng nộ”.

“Chứng sợ hãi cuồng nộ là gì?”

“Nói một cách đơn giản, chứng sợ hãi cuồng nộ chính là chỉ nỗi sợ hãi của anh ta đối với bất cứ hoàn cảnh nào khiến anh ta nảy sinh sự sợ hãi và bất lực. Ví dụ, sợ độ cao.”

“Ồ, chính là chứng sợ hãi phải không ạ?”

“Khà khà, cũng gần như thế.”

“Thầy giỏi quá, hiểu biết rộng.”

“Cũng chỉ là rảnh rỗi đọc cho vui thôi. Phải rồi, phương pháp lần trước tôi dạy cậu, thế nào, có tác dụng không?”

“Cũng tạm được.”

“Thế thì, cậu có thể nói cho tôi biết, rốt cuộc cậu sợ cái gì không?”

“… Không có gì!”

“Khà khà, thả lỏng chút đi. Rất nhiều việc, chỉ cần cậu đứng ở góc độ khác, thì cách nghĩ của cậu về nó cũng sẽ khác đấy. Ví dụ…”

Tiếng ấn chuột ở máy vi tính.

“Trong số những động vật này, cậu sợ những con nào?”

“Ừm, con chuột.”

“Ha… ha, được. Nhìn xem, đây là một bức ảnh về con chuột. Này, đừng quá căng thẳng, nhìn vào màn hình, cậu có sợ không?”

“Đương… đương nhiên.”

“Được, đừng quá căng thẳng. Lúc nhỏ, cậu đã từng bị chuột cắn bao giờ chưa?”

“Chưa.”

“Vậy thì, trong nhà cậu, có ai sợ chuột không?”

“Mẹ tôi.”

“Lúc cậu còn nhỏ, mẹ cậu thường xuyên dẫn cậu đi chơi phải không?”

“Đúng vậy.”

“Khi ở cạnh mẹ, cậu đã nhìn thấy chuột chưa?”

“Có nhìn thấy.”

“Lúc đó thế nào?”

“Có một lần, mẹ tôi ôm tôi đến trường mầm non. Khi đi qua vườn hoa, một con chuột chạy lao qua trước mặt mẹ. Mẹ tôi lúc đó kêu thét lên, vội vàng bỏ chạy, sém chút nữa là vứt cả tôi. Còn có một lần, có một con chuột chết trước cửa nhà tôi, mẹ tôi sợ quá, không dám đến gần, nắm tay tôi đứng ở bên ngoài rất lâu, đến tận khi bác hàng xóm vứt con chuột chết đó đi, chúng tôi mới về nhà.”

“Khà khà, hiểu rồi. Cậu rất yêu mẹ cậu phải không?”

“Đương nhiên!”

“Mẹ cậu bao nhiêu tuổi rồi?”

“Ồ, 51 tuổi.”

“Được, cậu hãy tưởng tượng ra một khung cảnh như sau, người mẹ tóc bạc trắng, tóc mẹ cậu đã bạc chưa?”

“Hai bên mai đã bạc trắng rồi.”

“Được, chúng ta tiếp tục. Bây giờ là mùa đông, bên ngoài gió thổi rất to, người mẹ tóc bạc trắng của cậu đang đứng run rẩy giữa cơn gió, phía trước là một con chuột đang chắn lối đi của bà. Con chuột đó rất to, lông đen sì, đôi mắt đỏ, cứ nhìn mẹ cậu chằm chằm. Cậu đừng run, dũng cảm lên!”

“Được… được!”

“Mẹ cậu vòng sang trái, vòng sang phải, cũng không thể nào đi qua được, lại vừa lo vừa sợ, nước mắt tuôn rơi, miệng lẩm bẩm: “Làm thế nào bây giờ, làm thế nào bây giờ.” Cậu có bằng lòng bảo vệ mẹ cậu không?”

“Tôi bằng lòng!”

“Ngồi xuống! Cậu nhìn xem, nó chưa dài đến một thốn, chỉ cần giẫm một cái là nó nát bét, nó không thể hù dọa mẹ cậu được nữa.”

“Đúng vậy!”

“Được, cậu hãy bảo vệ mẹ cậu! Đi lên và giẫm chết nó!”

Trong phòng vang lên tiếng ghế bị xô đổ, tiếp theo là những tiếng giẫm chân “bịch… bịch”.

“Được rồi, được rồi, bình tĩnh một chút! Cậu muốn uống gì?”

“Không, không cần đâu, cảm ơn!”

“Hít thở sâu. Tốt, tốt lắm. Nào, bây giờ cậu hãy xem lại bức ảnh này. Cậu còn thấy sợ nữa không?”

“Đã khá hơn một chút rồi!”

“Nó không hề đáng để cậu phải sợ hãi chút nào, nó chỉ là một con vật nhỏ bẩn thỉu đáng ghét thôi. Vì mẹ cậu, hãy dũng cảm lên!”

“Đúng vậy, đã ổn hơn nhiều rồi!”

“Lau mồ hôi đi!”

“Cảm ơn. Thầy nên làm một bác sĩ tâm lý.”

“Bác sĩ tâm lý? Không, tôi chỉ là thích thăm dò tâm lý con người thôi.”

“Thật đấy. Ở cùng thầy, tôi cảm thấy rất thoải mái, rất vui.”

“Thế thì tốt, tôi rất muốn giúp đỡ cậu.”

“Thầy biết không, trông thầy rất giống một người bạn của tôi.”
Chương 6

Thái Vĩ đã hai lần đến giảng đường tìm Phương Mộc. Đây là tiết Luật tố tụng hình sự. Phương Mộc và Mạnh Phàm Triết ngồi ở dãy cuối cùng.

Mạnh Phàm Triết trông có vẻ rất thư thái, bởi cậu và Phương Mộc đã có một giao ước: nếu như điểm danh, Phương Mộc sẽ bịt nửa miệng và trả lời thay cậu. Phương Mộc cũng không phản đối việc giúp đỡ này, chỉ có điều, mỗi môn học đều phải ngồi cùng cậu ta, Phương Mộc vốn quen ngồi một mình, nên cảm thấy hơi ngượng ngạo. Hơn nữa, đây cũng không phải là cách để giải quyết tận gốc rễ vấn đề.

Khi bước đi, Phương Mộc cảm nhận được thấy sự lo lắng và ủ dột của Mạnh Phàm Triết phía sau mình. Nhưng cậu không kịp suy nghĩ nhiều về cảm giác của Mạnh Phàm Triết được, vì ánh mắt của Thái Vĩ khiến cậu cảm thấy căng thẳng.

Đi đến hành lang, Phương Mộc khẽ hỏi Thái Vĩ: “Sao vậy? Lại xảy ra chuyện à?”.

“Ừ, không có người chết, nhưng có một cô gái mất tích”.

“Cô gái này chắc cũng không nhiều tuổi, phải không?” Phương Mộc buột miệng nói.

Không cần trả lời, ánh mắt của Thái Vĩ đã khẳng định điều đó.

Khoảng 10 giờ đêm qua, đồn công an khu Hồng Viên đã nhận được tin báo án, một học sinh nữ lớp 7 tên Từ Kiệt đã mất tích. Trong cuộc phỏng vấn điều tra, một chủ quán thịt nướng bên lề đường cung cấp một thông tin vô cùng quan trọng: khoảng 4 giờ 40 phút, ông đã nhìn thấy một bé gái giống Từ Kiệt nói chuyện với một người đàn ông trẻ gầy gò ăn mặc lôi thôi. Cảnh sát trong đồn công an cảm thấy người đàn ông này rất giống với tên “quỷ hút máu” đang bị truy nã, bèn trực tiếp báo cho tổ chuyên án của Sở Công an thành phố.

Phương Mộc và Thái Vĩ đến nơi mà nhân chứng nói đã nhìn thấy Từ Kiệt và người đàn ông đó. Phương Mộc nhìn xung quanh, Thái Vĩ hỏi cậu: “Cậu có nghĩ là do hắn ta gây ra không?”.

Phương Mộc không trả lời, mà lại hỏi Thái Vĩ: “Anh có bản đồ khu này không?”.

Thái Vĩ nói: “Đã chuẩn bị từ lâu rồi”. Nói xong, bèn lấy một tấm bản đồ từ trong xe.

“Đã có suy nghĩ giống nhau rồi đấy.” Phương Mộc cười.

“Tin rằng cậu cũng đã nhận ra, địa điểm gây án của hung thủ rất tập trung”. Thái Vĩ lấy ngón tay chỉ vào từng điểm trên bản đồ: “Ở đây, ở đây, cả ở đây nữa, đều là trong khu vực này, gồm cả địa điểm đứa bé gái bị mất tích này nữa, cũng ngay gần đây.” Anh ngẩng đầu nhìn Phương Mộc: “Theo như tư duy của những người phá án chúng tôi, nếu như nghi phạm lựa chọn địa điểm gây án cùng một khu vực, thường sẽ cho rằng hắn ta không quen thuộc địa bàn gây án, điều này có nghĩa, rất có khả năng người ngoại tỉnh gây án. Sao cậu lại cho rằng hắn ta sống ngay gần đây?”.

“Hắn ta thì khác,” Phương Mộc lắc lắc đầu, “Hắn ta ra tay rất linh hoạt, chứng tỏ, hắn ta không cố tình chọn lựa nạn nhân, nhưng có lẽ, lần này là ngoại lệ.” Cậu ngẩng đầu nhìn Thái Vĩ: “Hắn ta đã bắt đầu chọn lựa những người trẻ hơn”.

Thái Vĩ nghĩ ngợi: “Thế cậu nghĩ, bé gái này còn sống không?”.

“Có khả năng.” Phương Mộc nhìn lịch trên đồng hồ đeo tay, thầm tính: “Hung thủ có quy luật khoảng 20 ngày lại gây án một lần, nhưng lần này, cách thời gian xảy ra vụ án lần trước mới chỉ có một tuần. Hắn ta muốn “nuôi dưỡng” nguồn máu, đợi đến khi hắn ta cần, có thể dùng ngay được”.

Cho dù là buổi sáng ánh nắng rực rỡ, Thái Vĩ vẫn bị rùng mình. “Nuôi dưỡng” người đang sống, khi cần thiết, có thể giết chết giống như giết bò giết lợn, rồi uống máu.

Đây là loại người nào?

“Hãy đến bệnh viện tâm thần thôi.” Phương Mộc lên xe: “Nếu tôi đoán không sai, vậy thì chúng ta vẫn còn chút thời gian, nhất định phải tóm được hắn trước khi hắn cảm thấy cần máu.”

Hầu hết các bệnh viện trong thành phố C đều có khoa Thần kinh, nhưng bệnh viện chuyên về thần kinh thì chỉ có hai. Thái Vĩ bố trí cho cấp dưới đi đến những bệnh viện khác đồng thời đặc biệt nhấn mạnh là không được để Cục trưởng biết, còn mình và Phương Mộc đích thân đến hai bệnh viện tâm thần đó.

Phương Mộc muốn tìm kiếm năm năm trở lại đây, có người nào mắc chứng ảo tưởng đến tư vấn hoặc nhập viện chữa bệnh, đặc biệt là những người có ảo giác liên quan đến máu. Bệnh viện đầu tiên rất nhiệt tình phối hợp, đáng tiếc không thu được kết quả gì. Khi điều tra ở bệnh viện thứ hai, Thái Vĩ vừa mới nói rõ mục đích đến, Viện trưởng đã nhớ ra một người.

Anh ta tên Phùng Khải, hai năm trước, khi anh ta 26 tuổi, đã bị mắc phải bệnh trầm cảm bởi chỉ trong vòng một năm, bố và anh trai anh đã đều lần lượt qua đời. Sau khi nhập viện, Phùng Khải cũng khá hợp tác chữa trị, xem ra, bệnh trầm cảm đã có chuyển biến tích cực. Nhưng có một lần, y tá nhìn thấy anh ta khi đang đi dạo bên ngoài đã túm chặt một con chim, và hút máu nó. Tiếp đó, anh ta yêu cầu bệnh viện truyền máu, bởi anh ta cho rằng mình mắc phải bệnh thiếu máu nghiêm trọng. Kết quả xét nghiệm của bệnh viện cho thấy, lượng hồng cầu trong máu anh ta hoàn toàn bình thường. Nhưng Phùng Khải không chấp nhận sự thực này, kiên quyết cho rằng mình bị thiếu máu trầm trọng. Do đó, bệnh viện phát hiện ra anh ta còn mắc phải chứng bệnh hoang tưởng. Sau một thời gian chữa trị chứng bệnh hoang tưởng, Phùng Khải đột nhiên bỏ đi không một lời từ biệt.

Trong ấn tượng của bác sĩ và y tá bệnh viện, Phùng Khải cao 1m73, rất gầy, lôi thôi, phòng bệnh của anh ta luôn bừa bãi lộn xộn. Phùng Khải không thích giao thiệp với người khác, cũng không có ai đến thăm anh ta. Sau khi anh ta đột nhiên mất tích, bệnh viện cũng đi tìm kiếm, kết quả là phát hiện ra địa chỉ anh ta đăng ký lúc nhập viện là giả.

Manh mối này khiến Phương Mộc và Thái Vĩ vô cùng phấn khởi. Suy nghĩ đến việc tên Phùng Khải có thể cũng chỉ là một cái tên giả, Phương Mộc đề nghị Thái Vĩ lập tức điều tra hai bố con qua đời vì căn bệnh về máu cách đây hai năm, đồng thời tìm kiếm người có tên Phùng Khải trong toàn thành phố, đặc biệt là trong khu Hồng Viên.

Hai hôm sau, kết quả điều tra cuối cùng cũng xuất hiện. Trong thành phố C, có tất cả 1244 người tên Phùng Khải, không có ai phù hợp với người cần tìm. Và hai bố con lần lượt qua đời vì bệnh về máu cách đây hai năm không có ai họ Phùng cả, nhưng lại có hai cha con họ Mã lần lượt qua đời vào năm 1998 và 1999 vì bệnh thiếu máu bất sản. Người cha tên Mã Hướng Văn, vợ mất từ lâu, năm 1998 qua đời vì bệnh thiếu máu bất sản. Mã Hướng Văn có hai người con trai. Một năm sau khi Mã Hướng Văn qua đời, con trai cả của ông tên Mã Thọ cũng qua đời vì căn bệnh thiếu máu bất sản. Con trai thứ Mã Khải thừa kế căn nhà bố anh để lại, và căn nhà này ở trong khu Hồng Viên, số 83 đường Bắc Thường Thanh. Nơi đây cách năm nơi gây án đều không quá 5 km.

“Chính là hắn ta!”

Trong phòng hộ khẩu của đồn công an khu Hồng Viên, đường Bắc Thường Thanh, Phương Mộc nói quả quyết khi nhìn thấy một bức ảnh trên màn hình vi tính.

Cho dù Mã Khải trong bức ảnh đầu tóc gọn gàng, nét mặt thanh thản, nhưng Phương Mộc vẫn nhận ra nỗi lo lắng và tuyệt vọng trong tận sâu đáy đôi mắt có vẻ đờ đẫn kia.

Lúc này, Thái Vĩ vô cùng thận trọng, anh gọi hai nhân chứng tận mắt nhìn thấy Mã Khải trong hai vụ án giết Diêu Hiểu Dương, Đồng Hủy và vụ mất tích Từ Kiệt đến đồn công an đối chứng. Nhân chứng trong vụ án Từ Kiệt mất tích không thể khẳng định Mã Khải có phải là người ông nhìn thấy hôm đó hay không. Còn nhân chứng vụ ám sát Diêu Hiểu Dương, Đồng Hủy thì khẳng định rất chắc chắn Mã Khải chính là người đã vào cửa hàng ông mua bình nước khoáng hôm đó.

“Không thể sai được, gầy hơn so với trong ảnh, nhưng chắc chắn là anh ta!”

***

20:22.

Tòa nhà cũ kỹ này ít nhất cũng phải hơn 20 tuổi. Qua điều tra, đây là khu nhà dành cho công nhân viên của xưởng chế tạo máy kéo Hồng Quang. Thái Vĩ ngẩng đầu nhìn cửa sổ tầng 3, rèm cửa màu xanh thẫm đã che kín cửa sổ, có thể thấp thoáng nhận ra chút ánh sáng vàng của ánh đèn từ trong phòng hắt ra.

Đội cảnh sát tham gia hành động gồm chín người, Thái Vĩ tạm chia thành ba tổ, tổ Công kích, tổ Chi viện, tổ Phong tỏa. Tổ Công kích phụ trách việc khống chế nghi phạm sau khi vào phòng, tổ Chi viện phụ trách giải cứu nạn nhân (đương nhiên nếu nạn nhân vẫn còn sống), tổ Phong tỏa phụ trách việc phong tỏa lối đi hành lang và bên ngoài cửa sổ, để đề phòng nghi phạm tẩu thoát.

Để bảo đảm thành công, buổi chiều Thái Vĩ và một cảnh sát đã hóa trang thành nhân viên công ty ga vào một hộ dưới tầng 1 để quan sát. Bố cục căn hộ này giống y như bố cục căn hộ trên tầng 3 của nhà Mã Khải, đều có hai phòng ngủ. Thái Vĩ phân tích, nạn nhân có thể sẽ bị nhốt trong căn phòng nhỏ nằm ở phía bắc. Anh yêu cầu tổ Chi viện chỉ cần tiến vào trong phòng, không cần biết nghi phạm đã bị bắt giữ hay chưa, đều phải lập tức tìm cơ hội vào được căn phòng phía bắc để giải cứu nạn nhân.

8 giờ 25 phút tối, toàn đội chuẩn bị hành động.

Thái Vĩ dẫn theo tổ Công kích và tổ Chi viện lặng lẽ đi lên tầng 3, dừng lại trước cánh cửa phía bên phải. Trên cửa không lắp mắt mèo. Đợi đến khi tổ Công kích đã mai phục ở hai bên, Thái Vĩ giơ tay lên gõ cửa.

Không ai trả lời. Nhưng Thái Vĩ chú ý thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng chuyển động trong phòng, ánh sáng thoát ra ngoài qua khe cửa cũng bị che lại.

Thái Vĩ lại gõ cửa thêm mấy tiếng nữa, vẫn không ai trả lời.

Thái Vĩ nói lớn: “Nhà này không có ai, sang nhà đối diện thôi.”

Thái Vĩ quay người gõ cửa căn hộ đối diện, giọng một nữ giới vang lên:

“Ai đấy?”

Thái Vĩ lớn tiếng: “Chúng tôi là người của xưởng Dược Tam Quảng, chúng tôi vừa mới phát minh ra được một loại sản phẩm mới, gọi là Bổ huyết lạc, chuyên chữa trị tất cả các loại bệnh về suy nhược cơ thể do thiếu máu. Để đáp lại thịnh tình của đông đảo khách hàng, chúng tôi đặc biệt tổ chức hoạt động tặng một triệu lọ thuốc cho mọi người. Hôm nay chúng tôi tới nhà để tặng thuốc cho chị, không thu bất cứ khoản phí nào.”

“Thế sao, đợi một lát!” Cánh cửa mở ra, một phụ nữ trung niên thò đầu ra: “Miễn phí phải không?”

Gần như đồng thời, cánh cửa đối diện cũng bật mở.

Cảnh sát ở tổ Công kích nhanh nhẹn lao thẳng vào người vừa mở cửa, hắn không kịp trở tay, bị ngã ngửa người xuống đất.

Thái Vĩ bỏ mặc người phụ nữ trung niên đang sợ hãi đến tròn mắt kinh ngạc, vội lao vào căn phòng 302.

Hắn ta bị mấy người cảnh sát ấn chặt xuống nền nhà, một anh cảnh sát túm lấy tóc hắn, nói: “Nói mau, tên gì?”

Thái Vĩ đi qua người hắn, chỉ cần liếc nhìn một cái, đã biết hắn chính là Mã Khải. Anh không dừng lại, mà đi theo tổ Chi viện tiến thẳng đến trước cánh cửa phía bắc.

Cửa phòng đóng, một đồng nghiệp trong tổ Chi viện đạp mạnh cánh cửa, Thái Vĩ giơ khẩu súng nhằm thẳng vào trong phòng.

Trong phòng không bật đèn, thấp thoáng nhận ra một người đang nằm trên giường. Những người cảnh sát lục soát khắp phòng, còn Thái Vĩ đi đến bên giường, lấy đèn pin chiếu, một cô bé đang bị trói trên giường theo hình chữ Đại (大

), hai tay và hai chân đều bị buộc chặt vào thành song ở đầu giường và cuối giường. Cô bé tóc tai rũ rượi, đôi mắt nhắm chặt, miệng bị bịt băng dính. Thái Vĩ nhận ra cô bé chính là Từ Kiệt bị mất tích.

Cô bé còn sống không?

Thái Vĩ để tay xuống phía dưới mũi cô bé, cảm nhận thấy vẫn có hơi thở, cục đá đè nặng trong tim anh như đã được đặt xuống đất.

Các đồng nghiệp xác định trong phòng không còn ai khác nữa, Thái Vĩ ra lệnh cởi trói cho cô bé đang hôn mê, đồng thời thông báo cho tổ Phong toả dưới tầng một gọi xe cấp cứu.

Xe cấp cứu dừng ở cửa tiểu khu đến ngay lập tức, nhanh chóng đưa cô bé đến bệnh viện kiểm tra.

Nghi phạm đã bị đeo còng tay, đang bò dưới đất trong phòng khách, hai cảnh sát trong tổ Chi viện đang chỉ súng vào đầu hắn.

Thái Vĩ kéo tóc hắn lên, cảm thấy tay mình nhơn nhớt rất khó chịu. Anh nhìn khuôn mặt Mã Khải, nhợt nhạt, gầy gò, quanh miệng nổi đầy mụn, mắt đầy dử mắt, mũi chắc là vừa mới bị ngã giập, đang chảy máu tươi. Cả thân người Mã Khải luôn ngọ nguậy, miệng lẩm nhẩm: “Máu…”.

“Anh tên Mã Khải?”, Thái Vĩ lớn tiếng hỏi.

Mã Khải từ từ mở mắt, nhìn Thái Vĩ, rồi lại nhắm mắt lại, miệng vẫn lẩm bẩm: “Máu… máu… Mau giúp tôi cầm máu!”.

Đột nhiên Thái Vĩ chỉ muốn lấy báng súng nện vào mặt hắn ta một cái, nhưng anh đã kiềm chế được. Anh đứng dậy, hất tay đầy kinh bỉ: “Đưa đi!”

***

Anh cảnh sát trực ban đồn công an đường Bắc Thường Thanh cứ thỉnh thoảng lại chăm chú nhìn cậu thanh niên kỳ lạ này.

Suốt cả buổi tối, cậu không nói một lời, chỉ lặng lẽ hút thuốc và nhìn xa xăm, chẳng buồn động đến hộp cơm để trước mặt.

Tiếng chuông điện thoại vang lên, anh cảnh sát trực ban nhấc máy, nói mấy câu, rồi quay sang hỏi: “Cậu là Phương Mộc à?”.

Cậu thanh niên quay phắt sang, trong mắt phát ra tia nhìn như muốn nuốt chửng đối phương.

“Tìm cậu đấy!”.

Phương Mộc đứng dậy, chắc tại ngồi lâu, chân cậu tê cứng, đi có mấy bước mà bàn ghế đã bị xô đẩy vang rền.

“Alô!”.

Trong điện thoại phát ra đủ loại tạp âm, có thể nghe thấy tiếng hò hét ầm ĩ và tiếng còi chói tai của cảnh sát, giọng Thái Vĩ gấp gáp, nhưng rất phấn chấn: “Bắt được rồi, chính là hắn!”.

“Cô bé kia thế nào?”.

“Không sao, giờ đang trong bệnh viện, tôi vừa mới gọi điện đến, bác sĩ nói, chỉ bị suy dinh dưỡng và kinh hoàng quá thôi, không có vấn đề gì nghiêm trọng”.

Phương Mộc từ từ nhắm mắt lại.

Đặt điện thoại xuống, lúc này Phương Mộc mới cảm thấy đau buốt ở những chỗ vừa bị va đập vào bàn ghế.

Cậu trở về chỗ ngồi, yên lặng một lúc, cậu mở hộp cơm trước mặt.

“Xin lỗi!”.

Anh cảnh sát trực ban thấy Phương Mộc nở một nụ cười mỏi mệt nhưng lại như vừa trút được gánh nặng ngàn cân.

“Anh có thể rót cho tôi một cốc nước được không?”.

TruyenFull.com đổi tên miền thành TruyenFull.tv