Trong những giờ phút nghiêm trọng của lịch sử, nhân dân và Đất nước thườngmượn lời nói của con trẻ để nói lên cái tráng khí của mình.
(Lời của người nghĩa quân già thời Trương Định)
1
Người ở các địa phương trong tỉnh bị giắc bắt giải về Ty An ninh ngày càngđông. Thôi thì đủ, thanh niên, trung niên, ông già, cả con nít… Và theohồ sơ, giấy từ gửi kèm theo thì người nào cũng là loại “Việt minh đầusỏ”, từng làm những việc nghiêng trời lệch đất. Nào là ám sát lý trưởnggiữa ban ngày, liệng lựu đạn vào bàn tiệc các quan Tây, nào là treo cờđỏ sao vàng, căng khẩu hiệu, rải truyền đơn…
Ty An ninh phải xây thêm hai buồng tạm giam rộng gấp đôi buồng cũ, và cũng sát liền ngay đó, vẫn không đủ chỗ giam.
Tên Ty trưởng quyết định chuyển bớt khoảng ba chục tù nhân loại cứng đầu,nguy hiểm nhất sang lao Thừa Phú - nhà tù lớn nhất ở Huế, được xây dựngtừ hồi Pháp thuộc.
Chúng rất sợ những tù nhân sắp chuyển đi phản đối. Vì đã vào lao Thừa Phú là coi như chính thức ở tù, chưa biết ngày nàomới được thả ra. Do đó chúng giữ rất kín việc chuyển tù, không cho biếtngày giờ chuyển và chuyển đi đâu.
Một buổi chiều trời mưa tầm tã. Mưa cứ từng đợt từng đợt, ào ào trút xuống, quất ràn rạt trên mái buồnggiam. Mưa hắt vào cả bên trong, làm những người gần cửa ra vào ướt lướtthướt. Khoảng quá trưa, trời hơi ngớt mưa, nhưng bầu trời mây đen vẫn ùn ùn đùn lên từ phía biển, báo hiệu những trận mưa sắp tới lớn hơn.
Tiếng khoá cửa lách cách. Cửa buồng giam mở toang. Hai tên Bảo Vệ Quân cầmngang súng trường “mát” cắm lê đứng chắn hai bên cửa. Một thằng An ninhgầy choắt, má hóp, môi thâm sì, đầu tóc chải “Bi dăng tin” ruồi đậu phải trượt chân, tay cầm một tập giấy đánh máy đứng ngay giữa cửa. Nhìn cách đứng và bộ dạng tức cười của chúng giống bức ký hoạ vẽ nhại cảnh QuanCông đứng giữa đọc sách, Châu Xương, Châu Bình cầm gươm bát xà mâu, đứng hầu hai bên tả hữu.
Thằng An ninh đảo cặp mắt trắng dã nhìn khắp buồng giam một lượt, nói giọng hách dịch:
- Ai nghe đọc đến tên thì dạ lên một tiếng nghe chưa?
- Không dạ mà ừ thì có được không ạ? - Tiêng một người nào đó từ trong góc tối hỏi vọng ra.
Hắn lừ mắt liếc xéo vào góc có tiếng hỏi, rồi bắt đầu đọc. Những người cótên gọi hồi hộp, bồn chồn, đưa mắt nhớn nhác nhìn nhau. Trong buồng giam có hơn năm chục người mà chỉ có ba chục người được gọi. Chính điều nàylàm cho họ bồn chồn, hồi hộp. Chúng gọi mình để làm gì? Chúng thả chăng? Hay đưa đi bắn? Hay chuyển qua một nhà tù khác? Trong đáy mắt nhữngngười được gọi tên trước, ánh lên những tia mừng rỡ, hy vọng… Nhưng đếnlúc nghe gọi đến tên Trần Văn Lượm và Nguyễn Văn Cận (anh thợ máy) thìnhững tia hy vọng trong mắt họ vụt tắt ngấm. Đầu họ rũ xuống, bật lêntiếng thở dài não nuột. Đã đứng chung danh sách với cái anh “Trưởng banám sát” và thằng con nít ranh hai lần vượt tù thì chẳng còn hy vọng gìđược tha!
Khi nghe gọi đến tên mình, Lượm không dạ, không ừ, mà đáprất to như ngay ở Đội trong giờ điểm danh: “Có mặt!“. Giọng nó vừa tovừa dỏng dạc, lại không quấy nghịch, làm thằng An ninh phải quặu mặt,gườm gườm nhìn Lượm một lúc khá lâu, mới cúi xuống đọc tiếp. Lượm khôngchút sợ sệt, nó còn gân mặt lên vẻ ngạo mạn, thách thức “Mi tức lắm à?“. Ánh mắt Lượm như muốn nói: “Tức thì hộc máu mà chết, chứ làm cóc khôchi được ta?“.
Lúc nào cũng vậy, hễ mỗi lẩn có mặt tụi An ninh, Bảovệ quân thì dù đang vừa mới bị đòn thừa sống thiếu chết, hoặc đang lobuồn đến muốn khóc òa, nó cũng cố làm ra vẻ mặt tươi tỉnh, cười cợt, cókhi còn chụm môi huýt sáo. Lòng kiêu hãnh của người chiến sĩ cộng vớitính tự ái của con nít, Lượm muốn tỏ cho chúng biết: “Tau coi khinh cáctrận đòn xé thịt, coi khinh nhà giam, súng ống, khóa xích… của bọn bay“. Đó cũng là một cách nó trả thù những trận đòn tướp thịt của tụi Anninh. Tụi An ninh, thằng cai ngục, mấy tên lính gác tù vẫn thường bàntán với nhau về Lượm “Đầu chưa sạch cứt trâu nhưng hắn cứng đầu cứng cổnhất buồng giam! Quân nớ các ông trên không cho đem bắn quách đi, để lớn thêm vài tuổi nữa, hắn cắt cổ tụi mình có ngày!”, “Cần chi đợi lớn thêm vài tuổi? Chừ mà hắn có dao trong tay coi hắn có cắt họng cổ tụi mìnhngay không?“.
Đặc biệt sau cái lần Lượm mở được khóa xích trốn ngaytrước mũi súng của thằng lính Tây gác ở Sở Mật thám Phòng nhì, thì cả Ty An ninh đều phải sợ hãi, kiêng dè. Ngay cái buổi chiều quan ba Sô-lêphải gọi đến lực lượng cảnh sát dã chiến dùng chó béc giê mới phát hiệnra được Lượm trốn trên ngọn cây và cho xe Jeep chở trả nó về Ty An ninh, thằng Ty phó An ninh đã cho gọi lên gặp ngay. Hắn có vẻ đắc chí tưởngđâu nhưng Lượm cùng phe với hắn, và đã giúp hắn trả mối thù bị tên chủmật thám Tây làm nhục. Hắn hỏi Lượm, không có vẻ gì giận dữ.
- Răng? Công trình đến như rứa mà phải chịu để bại lại à?
Lượm đang cơn uất ức chưa nguôi vì cú thất bại quá cay đắng, nên cũng quênluôn hắn là Ty phó An ninh kiêm Trưởng phòng lấy cung, trả lời rất thành thật:
- Tại tui dại, tui quên mất tụi hắn có chó săn. Tui mà nhớ,thì tui phải lập mẹo khác. Trước khi trèo lên cây tui trèo lên một câykhác xa đó, cởi hết áo quần vứt lên để đánh lạc hướng chó… Tổ cha conchó săn…?
- Hỗn? - Mặt hắn vụt tím lại, quát to.
Tiếng chó sănLượm nói một cách vô tình nhưng hắn cho là nói cạnh hắn. Hắn dang thẳngcảnh tay tát Lượm mạnh đến nỗi Lượm ngã nhào từ trên ghế xuống đất, nằmchết giấc một lúc. Chuyện đó xảy ra cách đây mới năm hôm.
- Lê VănTư, bí danh Tư-dát? - Tên An ninh đọc đến tên cuối cùng của bản danhsách, không ai ừ hoặc dạ. Hắn lại xướng to lên một lần nữa.
Lượm chợt hiểu ra. Nó huých cùi chỏ vào sườn thằng Thúi lúc này đang vươn cái cổngẵng như cổ gà con mà ngó tên An không chớp mắt.
- Ông nớ gọi tên mi đến hai lần rồi răng mi không ử, không ừ chi hết cả. Mi vô phép thiệt? - Lượm nói giả vờ giọng trách mắng.
- Nhưng tui có phải tên Tư mô? - Thằng Thúi cãi lại miệng há ra, ngơ ngáe.
Nó vội vàng lập cập đứng lên, dợm bước tới một bước, vòng tay khúm núm thưa với tên An ninh:
- Dạ thưa chú, con không phải tên Tư. Dạ con tên là Thúi, bán kẹo gừng ở chợ Bao Vinh…
Lượm cũng đứng dậy, bước tới nói chen vô như cãi nhau với thằng Thúi:
- Rứa răng hôm mi bị bắt, mi khai với các ông nớ mi tên là Tư-dát, ViệtMinh đầu sỏ, mang rá kẹo gừng về đánh đồn Hộ Thành, làm đồn sập cái rầm, còn rá kẹo gừng thì chảy nước hết? Mi còn nhận là trưởng ban ám sátVê-cu-đê nữa tê mà?
Thằng Thúi cãi lại, nước mắt rớm rớm:
- Tại họ đánh tui đau quá, tui phải khai bậy khai bạ rứa, chứ tui là thằng Thúi bán kẹo gừng thiệt mà… hu hu… - Nó òa khóc to.
Những người trong buồng giam đang lo buồn nẫu ruột nhưng nghe hai đứa cãi vã nhau đều phải phì cười.
Tên An ninh gằn giọng ra lệnh:
- Tất cả những người có tên gọi ra ngay sân tập họp. Có đồ lề của nả chi đáng giá thì mang theo.
Ba chục người tay xách nách mang, lôi thôi lếch thếch nối nhau bước rakhỏi cửa buồng giam. Họ đứng thành một hàng dài dọc cái sân rải đá dămlổn nhổn, nước đọng từng vũng lớn nhỏ. Thằng Thúi và Lượm nhỏ nhất, đứng ngay ở hàng đẩu. Nhìn thấy thằng Thúi đeo kè kè trước bụng cái rổ vàcái mẹt bán kẹo gừng - đồ lề của nả đáng giá nhất của nó - thằng An ninh ngứa mắt giựt phắt cái rá ra khỏi cổ nó, và cầm liệng bay qua bên kiamái nhà. Bị giựt quá bất ngờ, thằng Thúi không kịp giữ lại. Nó nhợm chân định chạy theo nhặt. Thằng Bảo vệ quân chộp cổ áo nó kéo giằng lại vàgiáng luôn một tát tai, chửi:
- Con mạ mi muốn trốn à - Hắn ngó dọc hàng người, giọng hăm he - Nói trước cho mà biết đứa mô bước ra khỏi hàng là ăn đạn ngay!
Chúng áp giải đoàn tù men theo hè những đường phố ướt át. Gió rung cây xàoxạc. Nước mưà đọng trên các tán lá rơi lộp bộp xuống đầu xuống cổ đoàntù. Khi rẽ đến đường phố thứ ba thì tất cả đều đoán được họ đang bị giải đến nhà lao Thừa Phủ.
2
Gần đến cổng lao Thừa Phủ trời bỗng đổmưa như xối. Đoàn tù hầu hết không nón không mũ, đội mưa xối xả, cắm cúi lầm lũi đi… Một người nào đó ở quãng giữa hàng, bật tiếng kêu rên:
- Cực chi mà cực lắm ri trời!
Đến trước cổng lao, hai tên lính áp giải hô đoàn tù đứng lại sắp thành hai hàng dọc.
Lượm đưa tay vuốt nước mưa giàn giụa trên tóc, trên mặt ngoảnh đi ngoảnh lại nhìn con đường phố hẹp dẫn đến cổng lao. Nó ngạc nhiên tự hỏi: “Cả cáithành phố Huế ni, có đường phố lớn nhỏ mô mà ngày còn đi học mình khôngchạy rông? Răng con đường ngang qua cửa lao ni lại không biết hè?”:
Nó chợt nhớ có lần mạ kể: “Ngày cha mới bị bắt, tòa án chưa kết án đi đày, tụi Tây giam cha gần một năm ở lao Thừa Phủ. Mỗi tuần mấy lần mạ bớicơm, bới nước tới cho cha. Lần mô gặp mạ, cha cũng năn nỉ: Em đến thămanh ít thôi kẻo mất công mất việc ở nhà. Em còn phải làm lụng nuôi con…Cứ theo anh bới sách hoài ri, cực chịu chi thấu… Mạ không nói câu chi,cứ đứng trân trân ngó cha, nước mắt chảy như tắm.“. Lượm bỗng thấy lồngngực trống rỗng, tim đau nhói, hai mắt cay xè như bị xông khói. Nó chưabao giờ thấy cảm thương người cha mà nó chưa hề biết mặt như giây phútnày. Nó mếu máo nói thẩm: “Rứa là chừ tụi Tây lại bắt con giải đến đâynhư cha ngày đó… Mà mạ con thì ở tận ngoài Ưu Điềm, Mỹ Chánh chưà haybiết chi chuyện con ở đây.“. Nó cúi xuống đường, miên man nghĩ: “Chưachừng ngày đó, cũng như buổi chiều mưa gió tầm tã như chiều ni, mạ co ro trong cái áo tơi lá, tay xách cái bị lác đựng cơm canh đứng đợi cha…đúng cái chỗ mà mình đang đứng đây cũng nên… Đời mạ khổ chi khổ lắm rứamạ ơi!“.
Nước mắt trào ra từng đợt ròng ròng trên hai má, nó cũngchẳng buồn đưa tay lên quệt. Nó cứ để mặc cho nước mắt hòa với nước mưa.
Nhà lao Thừa Phủ được xây dựng cùng một kiểu với hầu hết các nhà tù mà bọnthực dân đã xây suốt gần một thế kỷ trên khắp nước ta. Khu vực nhà laohình vuông, có hai lớp tường. Lớp tường ngoài cao hơn lớp trong, xâybằng đá, cao vòi vọi nóc tường cắm chi chít mảnh chai. Như sợ chưa đủcao, trên nóc tường còn chạy quanh một hàng cọc sắt cao gần một mét,giăng đầy dây điện. Cổng lao cao vượt ìên như một cái tháp, hai cánh cửa lớn bằng gỗ lim ghép kín mít viền nẹp sắt, tán đình sắt tròn. Trên nóccổng cắm một cột cờ sơn xanh, treo hai lá cờ xanh trắng đỏ và vàng quẻly(1). Hai lá cờ ướt sũng, như hai con gà rù đứng sã cánh dưới mưa. Bênphải cổng, có một chòi canh. Trong chòi một tên Bảo vệ quân cầm súng cắm lưỡi lê đứng gác. Một tên lính áp giải tù đi đến chòi canh trình báovới tên lính gác. Lát sau, một cánh cổng lao nặng nề hé mở chỉ vừa haingười qua lọt. Khi người tù cuối cùng vừa vào khỏi, cánh cổng đóng ậpngay lại. Thành phố đã hoàn toàn khép kín đằng sau lưng họ. Không ai bảo ai mà tất cả đều ngoái lại. Tầm mắt họ bị chặn đứng bởi màu tường đáxám xịt, che khuất cả những ngọn cây cao ngoài đường phố. Hàng mảnh chai tua tủa lóng lánh nước, như đang cắt xé bầu trời sầm tối trút mưa. Cặpmắt Lượm nhòe nhoẹt nước mưa, nước mắt, ngước lên mãi, đăm đăm buồn bãnhìn hàng mảnh chai. Chưa lúc nào như lúc này nó thấy tiếc đến cồn càocả ruột gan lần vượt tù thất bại vừa rồi. Nó như nghe tiếng chó sủa dửtợn chiều hôm đó, làm nó đang ôm siết cành cây ngủ mê mệt như chết, phải choàng tỉnh dậy. Phải mất đến một phút nó mới nhớ lại được tất cả mọichuyện. Nhìn xuống gốc cây, nó thấy một bọn đông lố nhố, đội mũ sắt sơntrắng, tay cầm súng lục, tiểu liên. Con chó lông màu vàng nhạt, to bằngcon bò con, nhảy chồm chồm, răng nhe nhọn hoắt, sủa váng đầu váng óc,hai chân trước ôm gốc cây cào cào như hóa dại. Nếu nhảy lên được đến nơi chắc con chó như con cọp này sẽ xé xác nó ra từng mảnh. Qua mấy phútđẩu hoảng sợ, một nỗi uất giận chưa từng thấy bốc lên đầu nó, làm nómuốn phát điên. Trời ơi, nó nhớ rất rõ lúc ấy nó thấy thèm ghê gớm cótrong tay một trái bom, hoặc một trái mìn ba càng. Nó sẽ ôm trái mìn lao thẳng từ ngọn cây xuống, nhắm trúng vào chính giữa cái tụi người và chó kia. Quả mìn sẽ nổ chuyển rung cả đường phố, nò cùng tan xác với bọnchúng. Hả hê biết mấy? Những giọt nước mắt nóng bỏng trào ra khóe mắt nó - những giọt nước mắt uất giận vì bất lực. Nó đã phải tụt xuống gốccây, giữa tiếng cười ré của bọn giặc, Tây có ta có… Bây giờ vụt nhớ lạicả người nó còn run lên vì uất giận.
Như bất ngờ bị trói, nó vụt nhắm mắt lại, cay đắng nhủ thầm: “Chừ thì hết rồi. Có tài thánh cũng đừng có hòng mà lọt qua được bức tường đã cắm mảnh chai, giăng dây điện tê!“.Từ lớp tường ngoài đến lớp tường trong cách khoảng mười thước. Bức tường trong thấp hơn nhưng dày đến hàng thước. Mấy thằng lính gác mặc áo mưađi lại trên nóc tường. Bốn góc tường nhô cao bốn cái chòi canh có lỗchâu mai nhìn ra bốn phía. Qua bức tường này có một khuôn cửa hẹp rộngchừng một mét, với một cánh cửa sắt đồ sộ chấn song lớn cỡ bắp tay.Khoảng cách giữa hai bức tường chạy dài về phía bên phải khuôn cửa mộtdãy nhà bán mái. Đó là chỗ ở của bọn lính ngục, văn phòng nhà lao, bếpăn nhà tù. Phía trái là ngôi lầu một tầng, tầng dưới thềm khá cao cóhiên rộng, tường quét vô trắng bốp, cửa sổ, cửa ra vào sơn xanh, treorèm thêu rua trắng muốt, kính cửa được lau chùi sáng choang: Đây là ngôi lầu của tên chúa ngục. Ngôi lầu nổi lên lạc lõng, trơ trẽn giữa khungcảnh xám xịt, dơ dáy, ảm đạm của nhà tù. Chẳng khác nào một mụn vải hoamới vá trên cái quần vá chằng vá đụp. Hai tên lính áp giải, gầm gừ, quát nạt, dùng mũi súng dồn toán tù đứng thành ba hàng dọc gần sát mái hiênđầu hồi nhà tên chúa ngục. Mưa vẫn không ngớt, cái ống máng kẽm đầu nócnhà nghẹn nước, tuôn ồng ộc. Những tên lính coi ngục khoác áo mưa đilại. Chúng ngang qua trước mặt toán tù đang đứng co ro ướt sũng, chẳngbuồn đưa mắt nhìn. Chúng đã quá quen thuộc cảnh tượng này.
Phía saulớp tường thứ hai, nhô lên những lớp nóc nhà. Từ trong đó vọng ra tiếngồn ào khác nào chợ Đông Ba đang họp vào lúc đông nhất. Mọi người nghểnhcổ nhìn những mái nhà trắng xóa sau màn mưa, nghĩ bụng: “Chắc tù nhốttrong đó phải đông lắm mới ồn ào đến mức ấy“.
Thằng Thúi từ nãy tớigiờ cứ đứng trố mắt nhìn khuôn cửa sắt trông như cửa nhốt ông Ba mươi ởvườn Bách thú, hai hàm răng nó va nhau lập cập vì mưa thấm lạnh thấuruột. Nó hỏi Lượm, mắt không rời những chấn song sắt.
- Anh nì. Họ nhốt ai trong đó anh hè?
- Nhốt tau với mi chứ còn nhốt ai nữa!
- Thiệt à anh?
- Rứa mi tưởng họ dắt tau với mi tới đây để cho vô ở trong cái nhà ni, -Lượm hất hàm chỉ lầu tên chúa ngục - rồi mời lên nằm giường nệm lò xochắc?
Thằng Thúi rùng mình, mếu máo:
- Ui chao! Tui chẳng có tội chi mà họ bắt nhốt vô đó…
Lượm giả làm mặt giận, làu bàu nói:
- Mần trưởng ban ám sát Việt Minh kiêm chỉ huy đánh đồn Hộ Thành mà mi cứ kêu hoài không có tội chi!
Thằng Thúi định cãi nhưng vừa mới mở miệng đã vội vàng câm bặt. Hai cánh cửakính đầu hồi nhà bất thẩn mở rộng. Từ bên trong nhà một thằng Tây caolênh khênh, đầu gần chạm khuôn cửa, bước ra. Hắn mặc bộ đồ “soóc” kakivàng nên nhìn nó càng cao. Cẳng chân, cẳng tay dài đuỗn không có týthịt, lông lá tua tủa. Trán hắn hói đến tận đỉnh đầu, tóc loăn xoăn màubã điếu, sống mũi gồ rất cao, gãy khúc ở giữa. Hàm râu quai nón cùng màu với tóe, bao quanh khuôn mặt dài và nhọn như cái nêm. Cặp mắt hắn sâumột cảch lạ lùng, đáy hố mắt lấp lánh cặp đồng tủ của loài ác thú. Miệng hắn ngậm cái ống điếu lệch về một bên mép, cần điếu cong như cái dấuhỏi, nỏ điếu rất to chạm hình sọ người. Trên đỉnh sọ bốc lên một lànkhói xanh lơ. Bên hông đeo xệ khẩu “côn đu”, một tay cầm cây roi da đen.
Vừa thoạt nhìn thấy hắn, toán tù có nhiều tiếng xì xầm khiếp đảm:
- Một Điếu, Một Điếu!
Nghe tên Một Điếu, Lượm sực nhớ những ngày bị giam ở Ty An ninh, nhiều lẩnnó được nghe kể: Một Điếu là tên chúa ngục hung thần lao Thừa Phủ. Hắnđóng lon quan một, lúc nào miệng cũng ngậm ống điếu, do đó mà có tên Một Điếu. Một Điếu có máu điên. Một tay hắn đã đánh và bắn chết khá nhiềutù.
Một Điếu bước ra gần sát mép thềm, tay chống nạnh bàn tay tì lênbáng súng lục, tay cầm cây roi da khẽ nhịp nhịp vào cẳng chân lông lá.Tên quản xếp, phó đề lao, đứng khúm núm sau lưng hắn. Hắn đưa cán roi da chỉ toán tù hỏi tên quản xếp: - Việt Minh? - Dạ bẩm bên Ty An ninh vừabáo là toàn loại Việt Minh hạng nặng cả đấy ạ. Một Điếu dọc theo mépthềm đi từ đầu đến cuối đoàn tù. Cây roi da ngúc ngoắc như một con rắnđen bị hắn nắm chặt đầu. Thằng Thúi mắt mở tròn xoe nhìn theo Một Điếuvới tính hiếu kỳ muôn thuở của con nít. Nó quên cả sợ hãi, mà đang thắcmắc tự hỏi “Tại răng lúc mở miệng nói mà cái ống điếu không rớt? Ông Tây ni tài thiệt!“. Lúc Một Điếu quay trở lại, nó vân không rời mắt cái ống điếu chạm hình đầu lâu ngậm lệch bên mép, chờ coi ông nói lần nữa cáiống điếu có rớt không… Lượm hoảng sợ thúc cùi chỏ vào sườn thằng Thúi,thì thào: “Mi muốn chết à mi?“.
Một Điếu ngoắc ngoắc ra hiệu cho toán tù.
- Viên i xi? Lại đây! Lại đây! - (cái ống điếu vẫn không rớt).
Hai tên lính áp giải ngang súng, một đứa đầu, một đứa cuối ép toán tù đứngsát vào thềm ngay dưới bức rèm mưa. Chưa ai kịp hiểu chuyện gì thì ngọnroi da như con rắn đen trong bàn tay lông lá của tên chúa ngục đã vunglên, quất vun vút xuống đầu xuống cổ toán tù. Toán tù khiếp đảm giạt rangoài cố tránh tầm roi. Nhưng hai tên lính áp giải cùng với hai lính gác ngục vừa kịp chạy tới, dùng báng súng thúc vào mạng sườn toán tù, ép họ sát vào để nhận phần roi. Mưa rơi đã mau mà trận roi càng mau hơn. MộtĐiếu vừa đi vừa quất, như muốn phân phát thật đều ngọn roi xé thịt “Việt Minh! Việt Minh! Việt Minh!.“. Hắn vừa quất vừa gẩm gừ rít lên, điểmnhịp cho mỗi nhát roi. Cái ống điếu bên mép vẫn không rớt, lại còn bốckhói xanh lơ, tưởng chừng như đã được hàn chặt vào mép hắn. Việt Minh?Việt Minh? Việt Minh?… Hình như càng đánh hắn càng hào hứng, roi quấtcàng nhanh hơn, tiếng gầm rít điểm nhịp càng dồn dập hơn.
Không còncách gì tránh thoát, toán tù cúi rạp người đưa lưng nhận roi, nhiều mảnh lưng áo nhòe máu. Ở ty An ninh, lúc bị đòn thằng Thúi la to đến thế, mà lúc này nó như bị cấm khẩu, không la được mệt tiếng. Trận đòn roi dalàm cho nó sợ đến cứng lưỡi. Nó bị hai ba roi liền quất đúng ngang cổ,rát bỏng như lừa cháy. Nó chúi đầu vào nách Lượm. Lượm cũng bị mấy roiquất chéo ngang vai đau xé thịt, nhưng thương thằng Thúi quá, nó liềumạng chìa lưng ra che roi cho thằng Thúi…
Khi thấy cả đám tù suốtlượt roi quất không còn sót ai, Một Điếu mới chịu dừng tay. Hắn nhúnvai, vung cây roi ra lệnh cho mấy tên lính gác ngục:
- Dẫn chúng nó vào ca-sô!
Hai tên lính ngục dồn đẩy toán tù đi qua khuôn cửa sắt lớp tường thứ hai.Qua một khoảng sân lầy lội bùn ngập đến mắt cá chân, toán tù dừng lạitrước một dãy nhà, chiều ngang rất hẹp mà Một Điếu gọi là ca-sô.
Ca-sô xây kiểu như nhà xí công cộng. Hai bên hai dãy buồng con, cửa đối diệnnhau, cánh cửa niềng sắt, chốt khóa kiên cố, giữa là lối đi hẹp, dài hun hút.
Toán tù bước lên mấy bậc tam cấp bùn nhày nhụa đứng thành hàngdọc lối đi. Cửa ca-sô mở rầm rầm. Mỗi ca-sô, mấy thằng lính gác ngục xôvào một hoặc hai người tù, và đóng ập ngay cửa lại, đập mạnh chốt sắt.Lườm và Thúi bị đẩy vào ca-sô thứ ba, dãy bên trái.
Ngoài trời đã xẩm tối, bên trong ca-sô không đèn đóm, càng tối như hũ nút. Hai đứa đứnggần sát nhau mà không nhìn thấy mặt nhau. Lượm nghe tiếng thằng Thúikhóc thút thít. Lượm lúc này cũng đang muốn khóc lắm. Bị ướt sũng suốttừ đầu đến chân, tóc tai, mặt mũi, quần áo, nước chảy ròng ròng. Nướcmưa thấm vào người lạnh thấu gan ruột. Áo quẩn dính hết vào các vết đòntra tấn cũ chưa lành, và những làn roi rướm máu của Một Điếu làm da thịt rát như phải bỏng. Mùi hôi thối xông lên nồng nặc và tiếng muỗi kêu như sáo bay loạn xạ quanh người. Mười bốn tuổi đầu, trong hoàn cảnh đó, gan mấy mà không khóc? Nhưng nghe tiếng thằng Thúi khóc ti tỉ bên cạnh tựnhiên nó không khóc được nữa, mà đâm nổi cáu.
Nó đưa tay sờ soạng:
- Mi mô rồi Thúi?
- Tui đây!… Hu hu hu!…
- Ai đánh đập chi mi mà mi cứ khóc hoài? Mi có nín đi cho tau nhờ không? - giọng nó gần như nạt nộ.
- Tui sợ lắm anh nờ…
- Sợ! Sợ răng còn làm trưởng ban ám sát? Mi cởi ngay quần áo ra mà vắtkhô như tau ri không? Mặc áo quần ướt lạnh thấu vô tới tim phổi là chếtkhông kịp ngáp đó. Chết ở nhà còn có cha mạ thương chớ chết ở đây chẳngai thương mô?
- Tui làm chi có cha mạ… anh!
- Thì có mụ chủ lò kẹo gừng thương mi! Mà mụ nớ không thương nữa thì có thằng Một Điếu thương.
Thằng Thúi đang khóc mà phải phì cười:
- Hắn thương đã gớm chưa anh? Hắn cứ thương cho vài trận như khi hồi thì da thịt gọi là nát bét…
Nghe lời Lượm nó cởi quẩn áo vắt nước. Nước rơi tong tỏng xuống nền.
Hai đưa vừa vắt khô áo quần vừa trò chuyện. Thằng Thúi nói:
- Anh gan cóc tía thiệt… lúc mô anh cũng nói nghịch được. Anh không sợ à?…
- Sợ ai?
- Sợ nhà tù ni… sợ thằng Một Điếu…
- Tây không sợ Vệ Quốc Đoàn thì thôi, có đời mô Vệ Quốc Đoàn lại sợ Tây? Mi nói chi dại dại ngộ ngộ rứa?
- Nhưng vô đây rồi thì biết đời mô ra được anh?
- Rứa mi tưởng tụi Tây chiếm mãi được Huế mình à? Mai mốt tổng phản công, Vệ Quốc Đoàn ta trên núi xuống đuổi cho tụi Tây chạy re cứt. Rứa là tau với mi đàng hoàng mở cửa tù mà ra. Mi thì về đeo rổ đi bán kẹo gừng.Tau thì về lại đội trinh sát của tau. Êm ro.
- Thiệt à anh?
-Không thiệt thì giả à? Được, để mai khỏe tau phải dạy cho mi bài chínhtrị ba giai đoạn kháng chiến. Học rồi là mi biết. tau nói chơi haythiệt. Chừ để tau thám thính qua cái xà lim ni coi ra răng cái đã.
Lượm vắt bộ áo quần ướt qua vai, đi quanh xà lim sờ soạng. Xà lim hình chữnhật, một bề chừng hai thước, một bề thước rưỡi. Nền láng xi măng, trống trơn bị thủng vỡ lồi lõm như đường ổ gà. Nước vắt áo quần của hai đứalàm nền ướt lõng bõng. Lượm kêu:
- Không có giường phản cứt chi hếtmi ơi! Rứa là tụi nó bắt tau với mi lại tiếp tục ngủ đất đây! Biết riđừng vắt nước xuống đất cho xong? Ngu thiệt?
Thằng Thúi cũng bò bốn cẳng sờ soạng nền xà lim.
- Có mùi chi thúi quá anh ơi. - Nó hít hít mũi kêu thành tiếng.
- Mùi cứt với nước đái chứ còn mùi chi nữa. Rứa mi tưởng Tây hắn rảy nước hoa cô-ti trong xà lim cho Vệ Quốc Đoàn với “Trưởng ban ám sát ViệtMinh” nằm ngủ chắc?
- Nhưng vừa thúi vừa ướt như ri thì làm răng nằm ngủ được?
- Không nằm được thì ngồi. Không ngồi được thì đứng mà ngủ. Đời Vệ QuốcĐoàn ngủ đứng, ngủ ngồi là chuyện thường. - Lượm khẽ ngâm nga: “Sốngthời nằm trên cành cây. Chết thời áo súng bó thây chiến trường!“. Đờichiến sĩ là như rứa đó mi ạ. Thơ thằng Tư-dát nó đặt đó. Mi đã được TyAn ninh phong cho chức Tư-dát, tình báo viên xuất sắc của thành Huế. Mimuốn làm được chức đó thì từ giờ trở đi tụi Tây, Việt gian có hành hạcực khổ đau đớn mấy cũng không được kêu rên. Tau ghét nhất là những đứahay kêu rên? Trước mặt tụi Tây, tụi Việt gian, trong bụng có cực mấycũng không được mếu, mà phải vênh mặt lên, cười thật ngạo vô cho tau. Mi đã nhớ chưa?
Lần đầu tiên thằng Thúi được nghe những lời lạ như vậy. Nó chưa hiểu hết, nhưng cảm thấy hay hay. Nó càng thêm yêu phục Lượm.Cái anh Việt Minh ni chỉ lớn hơn nó hai tuổi mà đã làm cho mấy ông Anninh, Tây mật thám, lo toát mồ hôi hột. Vừa rồi không eó anh ấy đưa lưng ra che roi [bad word] bò của thằng Một Điếu thì lưng cổ mình phải nứtra như củ sắn mỳ luộc quá chín.
Hai đứa bò bốn cẳng sờ soạng một lúcrồi cũng tìm ra được một góc xà lim hơi ráo nước. Hai đứa cùng trần nhưnhộng, ngồi nép sát vào nhau, lưng dựa tường. Áo quần ướt cuộn lại mộttúm, để bên cạnh. Lượm quàng tay qua đôi vai gày nhom lục cục nhữngxương của thằng Thúi:
- Ngồi sát vô chút nữa cho ấm mi. - Lượm nói và kéo nó sát vào mình hơn. - Mi nói là mi sợ cái nhà tù ni à? - Tau thìtau ưng bụng lắm. Đã gọi là ở tù thì cũng phải cho ra ở tù. Tù như bênTy An ninh tao chán lắm. Nó là cái nhà bếp chớ có phải nhà tù mô mi! Cửa chẳng ra cửa, vách chẳng ra vách. Còn cái nhà tù Thừa Phủ ni à hai lớptường đá tảng, có cắm mảnh chai nghe, cửa toàn cửa sắt nghe? Chấn songcửa như chấn song nhốt cọp nghe? Khóa cửa to như cái ấm tích nghe? Xàlim không phản, không giường thối hoang mùi cứt nghe! Ở tù như ri mớiđáng mặt ở tù!
Không trông rõ mặt nhưng nghe giọng nói tưng tửng bỡncợt của Lượm, thằng Thúi thấy bụng khuây khuây. Không còn thấy sợ hãirầu rĩ như mới bước vô đây.
- Anh Lượm ni…
- Cái chi?
- Anh còn cha mạ không?
- Còn mạ thôi. Cha tau chết rồi… Cha tau làm cộng sản bị Tây bắn chết lúc tau mới chưa đầy hai tuổi. Mạ tau đi dệt thuê cho người ta ở ngoài MỹChánh ba bốn tháng về thăm tau một lần. - Rứa trước khi vô Vệ Quốc Đoàn, anh ở với ai?
- Ở với ông nội, với các chú ruột. Các chú nuôi cho đi học.
- Anh học có được nhiều chữ không?
- Nhiều cóc chi! Mới lớp nhất “cua súp-pê-ri-ơ” chớ mấy.
- Rứa mà còn không nhiều? Chẳng bù cho tui; chẳng biết được chữ chi, ngóvô tờ sách như ngó vô cái đít nồi - Nó thở dài, giọng trở nên buồn thiu. - Tui cũng thèm đi học lắm… Trong xóm tui, ngày Huế chưa đánh nhau, cólớp bình dân học vụ người đi học đông lắm. Mấy ông tral, bà tra cũng đi. Mỗi ngày tui đi bán kẹo, ăn bớt được của mụ chủ hai ba xu, dồn lại được gẩn một đồng. Tui mua một cuốn vở, một cây bút chỉ, định xin đi học. Ai ngờ thằng Sửu, con mụ, cũng bằng tuổi tui, hắn biết được chuyện tui rắp rem đi học, hắn mách với mạ hắn. Rứa là mụ lục tìm xé tan xé nát cuốnvở vứt vô bếp. Còn cây bút chì mụ lấy dao chặt nhỏ từng khúc, rồi cònđập cho tui một trận bò lê bò càng, mụ chửi:
- Cái thứ người như mi mà cũng đòi đi học à?
Nó nhại giọng the thé nanh nọc của mụ chủ. - Cóc nhái cũng định đòi ngoi lên làm người!
Lượm căm tức nói:
- Con mụ ấy phải cho ăn đạn?… Được rồi, - Lượm vỗ nhè nhẹ vô lưng Thúi,giọng dỗ dành, - mi chịu khó ở tù với tau, tau sẽ dạy cho mi học, chỉmột tháng là mi đọc được sách báo:
- Thiệt anh nghe? - thằng Thúi ghé sát mặt Lượm, hỏi lại, giọng hồi hộp.
Lượm làm giọng giận:
- Từ giờ trở đi mi không được hỏi tau câu đó nữa nghe? Cái chi cũng thiệt à anh? Tau nói là tau làm. Bể đẩu bể trán tau cũng làm.
- Nhưng ở tù không có giấy bút chi hết, làm răng mà học được?
- Thì lấy que viết xuống đất, lấy gạch non viết xuống nền xi măng mà học, chứ lo chi mi?
Giọng thằng Thúi ngơ ngác:
- Lấy que viết xuống đất mà cũng học biết chữ được à anh?
- Mi chưa biết, ông Hai Chính ủy Trung đoàn của tau, trước Cách mạng ônglàm nghề kéo xe tay, chữ a cũng không biết. Sau đó ông đi làm cộng sảnbị Tây bắt vô tù, các đồng chí của ông lấy que viết xuống đất, dạy ônghọc. Đến khi ra khỏi tù ông đã học giỏi bằng người đỗ ri-me. Vô Vệ QuốcĐoàn, ông được phong làm Chính ủy Trung đoàn.
- Ui chao, ông ấy tài anh hè?
- Tài vừa vừa thôi, mi mà cứ chịu khó học thì chưa chừng lớn lên làm cấp chỉ huy cũng nên.
- Anh cứ nói chọc tui. Tui là thằng bán kẹo gừng, làm răng vô Vệ Quốc Đoàn mà làm cấp chỉ huy được?
- Mi là thằng bán kẹo gừng còn tau là thằng giữ trâu, thua chi mi? Rứa mà tau vô Vệ Quốc Đoàn được thì mi cũng vô được chớ? Mi cứ chịu khó họcbiết chữ, không sợ Tây, mật thám, an ninh, ra tù tau sẽ giới thiệu mi vô Vệ Quốc Đoàn. Vô ngay đội thiếu niên Trinh sát của tau là hay nhứt. Ởtrong đội tau khối đứa còn cực hơn mi, làm đủ nghề, bán báo, đánh giày,bán đậu phụng rang, làm xiếc, mà thằng mô đánh Tây cũng gớm cả.
- Anh nói thiệt à anh? - Giọng thằng Thúi như reo lên, - Ui ui tui lỡ miệng,anh đừng giận tui mà tội. Ra tù anh cho tui theo anh vô Vệ Quốc Đoànvới? Đi ở bán kẹo gừng mãi cũng cực lắm anh nờ.
- Được nhất định tau sẽ giới thiệu mi vô Vệ Quốc Đoàn. Chừ thì ngủ cái đã, tau buồn ngủ ríu cả mắt…
Chỉ phút sau, hai đứa đã ôm nhau, dựa lưng vào tường ngủ ngồi, ú ớ nói mê…
Chú thích:
(1) Cờ của chính quyền nguỵ ngày đó.
3
- Dậy! Dậy! Con mạ bay! Chừ mà còn ôm nhau ngủ à?
Tiếp câu chửi là mũi giày đế thúc vào lưng hai đứa.
Lượm và Thúi đang ngủ say như chết, bật lên kêu “Ui! úi!” chồm ngay dậy, ngơ ngác, sợ hãi.
Trước mắt chúng, đứng chắn trước cửa xà lim mở rộng ìà tên lính ngục, một tay xách súng, tay kia thì bịt mũi. Hai đứa chỉ nhìn thấy mặt hắn lờ mờ, vì bên ngoài tuy trời đã sáng nhưng trong này vẫn còn nhập nhoạng tối.Phía sau thằng lính có một người tay xách cái rổ. Người này nhặt hai vắt cơm trong rổ ném vào trước mặt hai đứa, rồi lấy chân đá qua chân tênlính hai cái thùng sắt tây hoen rỉ.
Tên lính nạt nộ - “Hình như tụinày đã cất tiếng nói là phải nạt nộ, như người ta đi ỉa là phải rặn” -một ý so sánh kỳ quặc vụt lướt qua trong óc Lượm làm nó suýt phì cười.
- Con mạ bay, cơm đó, ăn đi. Đái ỉa thì đái vô cái thùng ni. - Hắn đá mũi giày vào một cái thùng lớn, - thùng ni thì đựng nước uống, - hắn đá vào cái thùng nhỏ hơn. Hai đứa chưa kịp nói gì thì cửa xà lim đã đóng ập,cài chốt lách cách.
Lúc này hai đứa mới tỉnh ngủ hẳn, hông vẫn cònđau tức. Chúng vụt nhớ lại tất cả, và hiện đang ở đâu. Lượm cúi nhặt hai vắt cơm nằm lăn lóc cạnh cái thùng đi ỉa, dính đầy đất và dâm dấm ướt.Nó nhăn mặt, ghê tởm, nói:
- Cơm nước ni thì làm răng nuốt nổi! Mất công chi mà hắn không cầm đưa cho mình được lại đem vứt xuống đất như vứt cho chó.
Lúc này hai đứa mới để ý phía sân tù sát cửa ra vào có tiếng ồn ào, huyênnáo như vỡ chợ. Tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng roi quất, quát tháo, chửimắng, tiếng ô tô rú máy, tiếng chân chạy rầm rập. Chắc ngoài đó phải cóđến hàng nghìn người đang kêu la, đi lại, chen chúc mới ồn ào đến nhưvậy. Chừng nửa giờ sau, tiếng ồn ào, huyên náo dịu bớt rồi tắt hẳn. Nhàlao trở nên im ắng lạ thường, như chợ đã tan.
Thằng Thúi cẩm một vắt cơm đưa lên mũi ngửi. Nó khạc nhổ, nói:
- Có mùi chi thúi thúi, chắc dính phải cứt hay nước đái anh ạ.
Từ chiều qua chưa có hột cơm nào trong bụng, thêm bị đòn, bị mưa xối ướtlạnh thấu ruột, mà hai đứa không tài chi nuốt nổi vắt cơm. Cứ đưa lênmiệng là muốn mửa. Nhưng đến quá trưa, hai đứa đói quá, đành lấy móngtay bóc lớp cơm dính bẩn bên ngoài rồi bẻ từng miếng nhỏ bỏ vô miệng,nhai trệu trạo vài cái nuốt chửng. Thằng Thúi vừa nuốt cơm vừa thút thít khóc.
Trong xà lim, giữa ban ngày, vẫn tối mờ mờ như trước giờ chạng vạng. Cái cửa tò vò ở trên cao, lại nhỏ quá, ánh sáng lọt qua không đủsoi sáng cái khoảng rộng chưa đầy ba mét vuông.
Lượm nhìn thằng Thúitrần truồng còm nhom như con nhái bén, ngồi thu lu ở góc xà lim, tay cầm vắt cơm ăn dở, vừa trệu trạo nhai, vừa nước mắt giọt ngắn giọt dài, tựnhiên thấy ngực đau nhói, thương nó quá chừng.
- Khổ thân hắn! - Lượm nghĩ bụng. - Chẳng thà đi Vệ Quốc Đoàn như mình, bị Tây bắt, bị nhốt xà lim cũng đáng. Còn hắn chẳng có tội tình chi, từ nhỏ đến lớn, ngày môcũng phải rạc cẳng, khô hơi, lo bán cho hết rá kẹo gừng. Tối về nhà thìlo nằm sấp xuống đất mà ăn roi mụ chủ lò kẹo… Rứa mà tự dưng cũng bịbắt, cũng tra tấn, nhốt xà lim. Tội nghiệp cho hắn thiệt! - Nỗi thươngxót lại trào lên trong lòng Lượm, tự nhiên nó cũng rơm rớm nước mắt. Nónói:
- Thôi mi đừng khóc nữa. Mi chịu khó ở tù thêm ít lâu. Mai mốttụi An ninh có gọi tau lên lấy khẩu cung, tau sẽ cố xin tụi hắn thả mira. Tau nói: Các ông bắt oan hắn. Các ông điều tra kỹ, nếu hắn đúng làTư-dát thì các ông cứ việc chặt đầu tui.
Đang khóc, thằng Thúi vội lấy cánh tay quẹt nước mắt:
- Đừng, đừng? Tui lạy anh! - Hắn nói giọng gần như thì thầm. - Chẳng thàtui cứ ở tù với anh ri còn hơn. May ra, sau ni anh đưa tui đi Vệ QuốcĐoàn… Chừ mà tui có được thả ra, mụ chủ thấy rá rổ bán kẹo mất hết, lạithâm vô tiền vốn, thì mụ tước xác tui ra anh nờ.
Nhắc đến tiền, nó bỗng hớt hải vứt nắm cơm xuống đất, chộp lấy cái áo sơ mi ngắn tay ướt mèm, tay run run sờ cổ áo.
Nó mừng rỡ, nói như reo:
- May quá! Tiền vẫn còn nguyên?
Lượm ngạc nhiên, cũng sờ vào cổ áo nó. Cổ áo cồm cộm, té ra số tiền bán kẹođược, nó gấp nhỏ lại đút giấu vào bên trong cổ áo từ bao giờ. Lượm gậtđẩu khen:
- Mi khôn thiệt - Mi mà được đi làm trinh sát liên lạc chắc mau giỏi lắm. Nhưng… Áo ướt mèm ri thì tiền bên trong nát hết.
- Không sợ, tiền giấy dai lắm. Có lỡ quên đem áo giặt cũng không việcchi. Áo khô thì tiền cũng khô thôi. - Nó mặc luôn cái áo ướt vào người. - Mặc vô ri có hơi người áo mau khô hơn.
Hai đứa lại ngồi lưng dựatường xà lim, lắng nghe động tĩnh bên ngoài. Nhà lao rất im ắng. Hìnhnhư bao nhiêu tù người ta đưa đi đâu hết. Suốt ngày, thỉnh thoảng mớinghe có tiếng quát tháo cái gì đó, mà người quát tháo đứng rất cao, đâunhư trên nóc nhà. Tiếng quy-lát súng xáo lách cách, cũng từ trên rấtcao. Hai đứa đoán là bọn lính ngục đang đi lại tuần tiễu trên nóc lớptường thứ hai. Lạ nhất là phía bên trong sân lao có nhiều tiếng con nít. Chúng chửi nhau, la ré, khóc thét, lại cả tiếng cười reo.
Lượm nói:
- Té ra trong ni cung loạn tù con nít như mi với tau. Rứa là tau với mi không lo vô đây không có bạn.
Khoảng năm giờ chiều, bên ngoài, tiếng ồn ào huyên náo lại bùng lên như buổisáng. Nghe tiếng chân đi lại rậm rịch, hai đứa đoán là sân lao phải chật ních những người. Hai đứa đoán tù được đưa đi đâu đó, bây giờ đưa về,vì nghe rất nhiều tiếng ô tô gẩm rú bên ngoài cửa lao. Đêm xuống, nhàlao im ắng như bị vùi chôn rất sâu trong bóng tối. Thỉnh thoảng có tiếng súng nổ xé tai, tiếng đạn rít qua mái nhà.
Hai đứa bị giam trong xàlim năm ngày, năm đêm. Chân hai đứa là chân chạy, bị tù túng trong vòngba mét vuông, chúng khổ sở đến muốn phát điên. Để khuây khỏa bớt cảnhcực khổ ghê sợ này, trong năm ngày đó, Lượm đã kể cho thằng Thúi nghebiết bao nhiêu chuyện buồn, vui mà cuộc đời chiến sĩ mới mười bốn tuổiđầu của nó đã trải qua. Nó kể về những ngày thơ ấu ở làng quê. Những trò nghịch ngợm làm cho nó bị đòn nhừ xương và một năm bị đuổi học tới balần; những ngày đi chăn trâu và do tình cờ mà nó được tham gia Việt Minh từ thời còn bí mật. Những ngày Tổng khởi nghĩa ở làng nó, sôi sục, tưng bừng mà vui hơn Tết. Chuyện nó trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn. Cuộc chiến đấu năm mươi lăm ngày đêm, từ mặt trận Huế đến mặt trận Truồi, Nong. Nó kểvề đội Thiếu niên trinh sát, các bạn trong đội, những trận đánh Tây hồihộp, mê hồn. Rồi cuộc rút lui lên chiến khu, và trở lại Huế hoạt động…
Nó kể, rồi chính nó cũng tự lấy làm ngạc nhiên. Cách mạng Tháng Tám với Vệ Quốc Đoàn sinh ra cho đời mình lắm chuyện thiệt. Nó tự nghĩ vậy. Khôngbiết giờ trở đi còn thêm chuyện chi nữa không?
Còn thằng Thúi cứ háhốc mồm mà nghe. Lúc nó run lên vì lo sợ hồi hộp, lúc nó bật cười khúckhích. Chốc chốc nó lại xuýt xoa: “Đời anh sướng thiệt!“. Có lần, đanggiữa câu chuyện, nó bật một câu nhận xết làm Lượm nở cả ruột gan:
- Ui chao! Chuyện của anh còn hay hơn cả chuyện đời xưa?
4
Buổi sáng ngày thứ năm, khoảng mười giờ, tụi lính ngục mở cửa xà lim thả hai đứa ra ngoài cùng với hai chục người khác, đưa từ Ty An ninh sang. Raxà lim họ sẽ được sang ở chung với những người tù khác trong hai ngôinhà dài ở bên kia sân lao, được gọi là ba-ti-măng một, và ba-ti-mănghai. Bọn gỉặc cần lấy xà lim để giam một toán tù mới, do xe ô tô bịtbùng của Sở Phòng nhì Pháp vừa chở đến. Những người tù mới này tay đềubị còng và chân bị xích. Nghe nói họ đều là loại Việt Minh nguy hiểmnhất. Một số đã lãnh án tử hình, án khổ sai chung thân, chúng đưa họ đến lao Thừa Phủ tạm giam để chờ ngày đưa đi bắn, hoặc đầy ra Côn Đảo, PhúQuốc. Ra khỏi xà lim, Lượm dắt tay thằng Thúi chạy đến nhập bọn với toán tù đang đứng chực lố nhố gần cánh cổng sát lớp tường thứ hai, đón nhìntoán tù mới.
Khi nhìn toán tù khoảng ba chục người - tay bị còng chắp trước bụng, chân bị xích, lê từng bước ngắn giữa hai hàng lính Tây LêDương mũ đỏ, súng cắm lưỡi lê sáng quắc, tất cả đều sởn gai ốc, rùngmình. Không một người nào mặt mũi còn nguyên lành. Tưởng đâu như trướckhi đưa đến đây, người nào cũng bị bọn Tây, kê mặt họ lên đòn kê rồidùng sống dao, sống rựa mà dần cho dập nát.
Lượm chú ý đến một ngườitù đi gần cuối hàng, cao vượt hơn người đi trước một cái đầu. Người nàychắc đã bị tra tấn ghê gớm lắm. Mặt tím bầm như quả bồ quân, hai môisưng vều khóe môi đọng hai vệt máu đen thẫm, một mắt bị đánh gần như lồi ra ngoài.
Nhìn người tù đi đến gần, mắt nó mở to kinh hoàng. Nó dụimắt lia lịa, gần như không còn tin vào mắt mình nữa: “Có lẽ nào!“. Nóvội đưa tay ìên bịt miệng để khỏi bật tiếng kêu đau đớn, sợ hãi: “Trờiơi, ông Phùng Đông, Chỉ huy trưởng mặt trận khu C. Hay là mình ngó lầm?Không, lầm răng được! Tuy mặt ông bị biến dạng như vậy, nhưng dáng người cao gầy, cái cằm vuông có cạnh như đẽo, bước đi đĩnh đạc quen thuộc, và nhất là con mắt sâu hoắm của ông, thì không thể nào lầm được!“.
Khi ông bước ngang trước mặt nó, nó không còn kìm nén được buột miệng khẽ kêu:
- Chỉ huy trưởng! Anh!…
Người tù ngoảnh sang, nhìn nó rất nhanh. Tia mắt ông chạm phải tia nhìn củaLượm, làm nó bất giác muốn ngất xỉu vì buốt xé tận ruột gan.
- Đúnglà Chỉ huy trưởng thật rồi? Ông đã nhìn mình. – Nó thoáng nghĩ - “Chắcông chẳng nhận được ra mình là ai, nhưng cũng đoán được mình là chiến sĩ của ông“.
Đầu ông khẽ gật với nó, và cặp môi dập nát như hơi mỉm cười.
Thằng lính áp giải sừng sộ bước lại. Cái lưỡi lê sáng quắc trong tay hắn nhưmuốn xóc vào bụng Lượm. Thằng Thúi sợ hãi, cầm tay Lượm kéo lùi về phíasau những người tù lớn tuổi.
Đoàn tù bị dồn vào dãy hành lang tranhtối tranh sáng giữa xà lim. Nhiều tiếng cảnh cửa rít mở và sập đóng rầmrầm. Quên hết sợ hãi, Lượm giật phắt khỏi tay thằng Thúi, chen lách quanhững người lớn tuổi, chạy bổ nhào theo đoàn tù. Nó muốn dò xem Chỉ huytrưởng bị giam ở xà lim số mấy. Nhưng trước cửa lối vào hành lang, haitên lính cầm súng cắm lưỡi lê đứng chắn không cho ai mon men lại gần.
Thằng Thúi chạy lại, cầm chặt cổ tay Lượm kéo ra xa:
- Anh cứ đứng ngó vô trong đó hoài, lỡ tụi hắn sinh nghi, xọc cho phát lưỡi lê thì răng?
Hai chân Lượm bủn rủn. Lượm ngồi phệch xuống gốc cây cơm nguội xơ xác gócsân lao. Miệng nó bỗng mếu xệch, nước mắt ứa ra. Thằng Thúi sẽ sàng ngồi xuống bên cạnh, lay lay nhẹ vai Lượm hỏi:
- Người anh vừa kêu là ai rứa? Bà con với anh à?
- Ui chao! - Lượm nghẹn ngào. - Người nớ là Chỉ huy trưởng mặt trận khu C đó mi nờ. Ông ấy đánh Tây lừng tiếng cả mặt trận Huế… Làm răng mà ôngấy lại để cho tụi hắn bắt được rứa không biết?… - Nói đến đó miệng nócàng mếu xệu.
Lượm có thể hình dung đủ mọi điều khủng khiếp, nhưngriêng cái việc chỉ huy trưởng mà cũng bị bắt, bị tra tấn, bị tụi đẩutrâu mặt ngựa chửi mắng như đã chửi nó, thì nó không thể nào tưởng tượng nổi. Tuổi nhỏ thường có khuynh hướng thần thánh hóa những nhân vậtchúng yêu kính, tôn sùng. Trong đầu Lượm những người Chỉ huy trưởng thìbọn giặc không thể đụng tới cái lông chân. Chứ đừng nói là bị giặc bắt,tra tấn, chửi mắng. Đối với các em, những con người đó đứng vào hàng bất tử.
Ngồi một lúc khá lâu, nó vẫn còn thấy bàng hoàng, choáng vángnhư bất ngờ bước hụt chân, ngã nhào đầu xuống hố sâu. Những giây phútnày, ngoài nỗi đau đớn thương xót đồng đội, cấp chỉ huy, trong lòngngười chiến sĩ mười bốn tuổi này có một cái gì nghiêm trọng hơn, to lớnhơn đang bị tổn thương nặng nề. Đó là niềm tin vào thắng lợi chắc chắncủa cuộc kháng chiến mà nó rất kiêu hãnh và vui sướng vì được dự phần.Chính sự kiêu hãnh đó đã nâng đỡ Lượm đơn độc mà vẫn đứng vững trongnhững tình huống gian truân, hiểm nghèo vừa trải qua. Nhưng niềm tin của các chiến sĩ. nhỏ tuổi bao giờ cũng được gắn liền với những nhân vật cụ thể. Các em coi họ là đại diện cho sức mạnh của kháng chiến. Đó làTrung đoàn trưởng, Chính ủy trung đoàn, Chỉ huy trưởng mặt trận… Hồi còn mặt trận Huế, khi nghe tin khẩu đại bác bảy lăm ly - mà cả trung đoàngọi “ông già bảy lăm” - đặt ở cột cờ, bị giặc phản pháo, vỡ mất đầunòng, tất cả các chú bé liên lạc của trung đoàn đều khóc. “Tụi hắn khócnhư cha chết rứa” như lời các anh lớn tuổi nói với nhau. Các em khóc vìlo sợ thay cho kháng chiến. Với các em, “ông già bảy lăm” cũng là mộttrong những nhân vật đại diện cho sức mạnh kháng chiến của quê hương.
Nước mắt chảy giọt ngắn giọt dài trên hai gò má Lượm cũng chẳng buồn đưa tay chùi quệt. Nó nói, mắt đăm đăm nhìn về phía hai cánh cửa gỗ niềng sắtlối vào hành lang xà lim, lúc này đã đóng chặt.
- Không biết ông đi mô một mình mà để cho tụi hắn bắt rứa không biết? Ông mà đi với cả đơn vị thì tài chi tụi hắn bắt được!
Lúc này Lượm vụt nhớ một chi tiết mà từ nãy tới giờ nó quên phứt: Chỉ huytrưởng không mặc quân phục. Ông mặc một bộ bà ba vải nâu, dầm dập. Nếukhông biết mặt thì ai cũng tưởng ông là người miệt quê đi mua trâu, bò.“Ông đã cải trang như rứa mà vẫn bị bắt thì chắc phải có đứa biết mặtông, chỉ điểm cho Tây. Đứa mô? Nhất định mình phải tìm cách hỏi ông chora“.
Như người mất hồn, nó đứng bật dậy, cầm tay thằng Thúi kéo đivòng quanh dãy xà lim mấy vòng liền. Mắt nó ghếch nhìn lên những khuôncửa vuông nhỏ xíu có chấn song sắt. Nó hy vọng có thể bất chợt thấygương mặt dập nát của Chỉ huy trưởng hiện ra sau khuôn cửa.
5
Mảighếch nhìn cửa tò vò xà lim, Lượm không chú ý trong đó một toán tù connít khá đông chăm chú nhìn theo hai đứa. Bọn này cũng trạc tuổi Lượm vàThúi, hai ba đứa lớn nhích hơn một chút. Chúng ngồi túm tụm trên cáithành bể xi măng dài hư nát. Trước kia là chỗ lấy nước cho tù nhân uống, rửa mặt, còn sót lại một hai cái vòi hoen rỉ.
Cả bọn, chỉ mấy đứa áo quần còn lành lặn, số còn lại rách như tổ đỉa. Có đứa trên người khôngphải áo quần mà những tấm giẻ rách treo lủng lẳng, lấm lem, hôi hám. Tay chân, mặt mũi đứa nào cũng đầy ghét, bùn khô bám từng mảng, như đàntrâu vừa đầm dưới bùn lên. Nhiều đứa hai chân loang lổ hắc lào, sần sùinhững mụn ghẻ hờm. Có lẽ chúng đã mấy tháng trời không được tắm rửa.
Ngoài toán này, còn khoảng vài chục đứa khác rải rác đi quanh lao. Đứa ngồidựa tường cởi áo bắt rận, đứa nằm dài trên đất ngủ dưới bóng cây cơmnguội, một tay co gối đầu, đứa lội trong đám cỏ xác xơ cuối sân lao tìmkiếm cái gì đó. Có vài đứa đang túm tụm chơi đáo bằng những mảnh ngóimái tròn hình đồng xu. Đứa nào cũng bẩn thỉu, gày gò, nước da xanh rớt
Đứa lớn nhất tù con nít ngồi trên thành bể là một thằng trạc mười sáu tuổi, đầu tóc bù rối như tổ quạ phủ kín gáy, miện rộng ngoác, cặp môi dày màloe, mũi hếch, cặp mắt ốc nhồi trâng tráo, hỗn xược. Thái dương hắn cócái sẹo to bằng hòn cái đánh đáo nhẵn bóng. Hắn mặc áo pạc-ti-dăng rộngthùng thình đen như nhúng bùn, mở phanh ngực, và cái quần đùi hai ống vo tròn đến bẹn. Chính giữa ngực xăm một quả tim có con dao thọc xuyênqua. Sức vóc nó khá lực lưỡng so với cái tuổi mười sáu của nó. Hắn ngậmlệch về bên mép điếu thuốc lá quấn bằng giấy báo. Hút mấy hơi hắn lạirít nhổ nước bọt qua kẽ răng và nhổ khá xa.
Nó ngồi tréo may chínhgiữa, mấy đứa kia xúm xung quanh, như vị chúa tể giữa đám quân hầu. Đứanào đối với nó cũng có vẻ khúm núm, sợ sệt, nịnh nọt. Tất cả đều gọi nólà anh xưng em ngọt sớt, có đứa còn gọi nó là “đại ca”, “Đại caLép-sẹo”. Nghe đàn em nói vậy hắn ngoác miệng cười.
Thằng Thúi từ nãy tới giờ đi theo Lượm nhưng mắt vẫn lấm lét nhìn về phía bọn này. Vớilinh cảm của đứa trẻ yếu ớt hay bị những đứa trẻ khoẻ hơn ăn hiếp, đánhđập, tự nhiên nó thấy sợ. Mấy lần nó khẽ giật tay Lượm ra hiệu “anh nì…” nhưng Lượm còn mải ghếch mắt nhìn các khuôn cửa xà lim nên không để ý.
Lép-sẹo hất hàm về phía Lượm và Thúi hỏi bọn đàn em:
- Hai thằng tê vô đây khi ni mà tau không biết hè?
- Tụi hắn bị giải vô đây từ chiều cái hôm trời mưa to ấy. Hôm ấy đại cađang ngồi đánh bài cạc-tê trong ba-ti-măng - Một thằng đôi mắt có cụcthịt thừa đáp
- Tụi hắn bị giam trong xà lim đến bữa ni mới được thả ra?
- Bị bắt vì tội chi?
- Chắc cũng là “cánh chạy” anh em ta - Một thằng cởi trần trùng trục đen như con chấy đáp
Một thằng mặt mỏng thổi bay lắc lắc đầu nói:
- Tụi chạy ở các chợ Đông Ba, Bến Ngự, An Cựu… tui quen mặt hết. Chắc hai thằng ni là dân “chạy nhép” ở các chợ xép - Một thằng áo quần lành lặnnói
- Nhưng mặt mũi hai thằng ni ngó bộ không phải dân ba de móc túi mô…
Lép-sẹo vụt khạc nhổ cái tàn thuốc ra xa, quay sang thằng này trợn mắt hỏi:
- Dân ba de móc túi thì mặt mũi như răng? Xấu lắm à? Mi muỗn xỏ xiên ông nội mi hả?
Hắn đưa tay đánh một tát tai để nhấn mạnh thêm câu hỏi vặn. Thằng bé bị tát này ngã nhào từ trên thành bể xuống đất. Nó lóp ngóp đứng dậy. Năm ngón tay của Lép-sẹo còn in hằn đỏ trên má. Nó phủi đất trên mặt, không dámkhóc, ấp úng nói:
- Không… không… tại tôi thấy mặt mũi của hai thằng dại dại, đần đần…
Thằng đuôi mắt có ve nói:
- Chắc hai thằng là liên lạc Việt Minh như mấy thằng đang đánh đáo đằng tê…
- Là liên lạc Việt Minh hay là ông trời tau cũng bắt hai thằng ni phảilạy từ dưới dái tau lạy lên! Lép-sẹo ngồi xổm thành bể chĩa miệng vềphía Lượm, Thúi gọi to:
- Ê! Ê! Hai thằng tê, đến đây mệ nhờ chútviệc! Lượm đứng sững lại nhìn nó, nó lại ngoắc tay, miệng chặc! chặc!chặc kiểu như gọi chó. Bọn đàn em thích thú cười rân.
Lượm cau mặt.Nó ngần ngừ một chút, bỏ tay thằng Thúi ra, bước thẳng đến. Thằng Thúivội vàng bước theo, nép sát bên Lượm, mặt tái đi vì sợ.
Khi Lượm còn cách chừng năm bước, Lép-sẹo chỉ cái tàn thuốc vừa vứt đi, bắt chước giọng “các mệ” nói:
- Mi lượm các tàn thuốc giúp mệ rồi cho mệ một xu mà ăn cà-rem! - Nókhuỳnh tay mở rộng hai vạt áo ra như muốn khoe quả tim có con dao gămxuyên qua, xăm trên bộ ngực cáu đen những ghét.
Lượm nhìn Lép-sẹo rồi nhìn cả bọn đang cười ngả nghiêng. ngặt nghẽo. Nó lấy làm lạ tự hỏi:“Cùng bạn tù với nhau mà mình cũng chưa hề quen biết, răng tụi hắn lạigây chuyện với mình?”
Thấy chúng đông nên tuy trong bụng đã sôi lắm, vẫn cố nén, nói giọng khá bình tĩnh:
- Đằng nớ không què cũng không cụt! Thích hút thì tự đi lấy mà hút! Còn tiền ăn cà-rem thì đây không thiếu mô
- Nhưng tính mệ khác, mệ thích sai mi lượm cho mệ hút tê!… Giọng Lép-sẹodài ra, Lượm thầm công nhận thằng ni bắt chước giọng “các mệ” không chêđược.
Thằng Thúi run rẩy, níu chặt khuỷu tay Lượm. Nó vội vàng kéo mạnh tay Lượm đi về phía khác, nói:
- Tôi với anh đi vô trong nớ tìm chỗ tối ni mà ngủ… - Nó chỉ tay vào dãynhà dài bên trái có hai cánh cửa sắt, nửa khép nửa đóng.
Lượm cũng nghĩ vậy, cố hết sức nuốt cục giận đi theo thằng Thúi.
Thế là cả bọn ê ê theo ầm ĩ. Lép-sẹo đứng thẳng lên thành bể, ngực ưỡn, một mặt chống nạnh, một chân nhịp nhịp điệu bộ như ông tướng phường tuồng,oang oang nói:
- Tụi bay đã thấy chưa? Hắn mới chỉ ngó thấy mặt mệ đã sợ thọt dái lên cổ rồi.
Lượm bước chân lại, cặp mắt vụt đỏ kè. Cánh tay nó rung lên, hai bàn tay nắm chặt. Nó chỉ muốn nhào trở lại, xông vào giữa cả bọn mà đấm, mà đá rồiđến đâu thì đến.
Thằng Thúi lo sợ nhìn nét mặt Lượm, nó như hiểu hếtnhững ý nghĩ trong đầu Lượm. Nó càng nắm chắc khuỷu tay Lượm hơn, cố giữ rịt và kéo Lượm bước nhanh về phía ba-ti-măng một. Nó nói nhỏ, gần nhưthì thầm:
- Kệ tụi hắn anh nờ… Gây lộn với tụi hắn làm chi cho nhớptay, nhớp miệng. Cả tụi ni tui biết hết. Toàn tụi ba de móc túi ngoàichợ Đông Ba. Hồi tui đi bán kẹo gừng, ngày mô mà chẳng gặp tụi hắn… -Vừa nói thằng Thúi vừa lấm lét nhìn lại phía sau
Nét mặt Lượm càng cau có hơn:
- Cái thằng sai anh lượm tàn thuốc lá là thằng Lép-sẹo dân móc túi tàidanh ở chợ Đông Ba đó. Tui gặp hắn luôn-Thúi nói-Tôi nghe mấy đứa bạnbán kẹo gừng, kẹo đậu phụng kể là hắn có tài móc túi từ ngày mới biếtđi. Dây chuyền vàng người ta đeo ở cổ mà hắn lột khi mô không biết. Cònmấy cụ ở nhà quê lên lơ ngơ vô chợ thì hắn lột cả khăn đống, cả dù… hắnlà trùm hết tụi con nít móc túi ở mấy chợ Đông Ba, An Cựu, Gia Hội. Đứamô móc được cái chi ít nhiều đều phải đưa cho hắn, không chia hắn đậpcho lộn mề lộn gan. Tui nghe nói hắn có võ, trong lưng lúc mô cũng códao… Hắn đã đâm chết hai thằng to xác hơn, rồi cột đá vứt xuống sông… Dễ sợ lắm anh nờ, không biết tại răng hắn vô tù.
Lượm nói, giọng sa sầm:
- Rồi trước sau chi tau cũng phải choảng nhau với hắn thôi. Hắn còn đeo theo tau mà gây lộn chứ chưa chịu thôi mô…
Thúi nói gần như van vỉ:
- Nhịn hắn đi là hơn, anh ạ. Tụi hắn đông, anh em mình nhịn nhau rănglại? Anh cứ nghe tui, cho tụi hắn chửi, mình cứ giả đò điếc, coi nhưkhông nghe thấy chi hết là xong…
Lượm bỗng đứng phắt dậy, giật mạnhtay ra khỏi bàn tay gầy guộc của Thúi. Nó nhìn Thúi với ánh mắt dữ tợn,nổi khùng, làm Thúi phải sợ hãi bước lùi lại một bước, Thúi tưởng Lượmsắp đánh nó:
- Chết thì thôi chứ tau lại giả đò điếc để cho mấy thằng ba de móc túi chửi à? - Lượm nói như quát - Mi quên tau là Vệ Quốc Đoàn à?
______________________
6
Bước lên năm bậc thềm bằng bê-tông trét đầy bùn đất, Lượm và Thúi đi vào hành lang ngăn đôi ngôi nhà xâybằng đá, có hai cánh cửa sắt nửa đóng nửa mở. Mỗi bên lại có một cánhcửa sắt, mở vào một gian nhà dài hun hút, được gọi là ba-ti-măng một vàhai - Lượm và Thúi tiện chân đi vào ba-ti-măng một - mùi thối đến nônmửa xộc vào mũi làm hai đứa phải đứng chững lại ở ngưỡng cửa, đưa taybịt mũi. Hai đứa trố mắt nhìn quang cảnh bày ra trước mắt và bất giácrùng mình. Cuộc sống năm ngày xà lim chưa đủ làm hai đứa quên đi cảnhtượng dơ bẩn đến nôn oẹ trong ba-ti-măng. Ba-ti-măng giống hệt một cáichuồng nhốt thú dữ. Tường xây bằng đá, chiều cao rộng chừng năm mét,chiều dài đến hai chục mét, nền xi măng lở loét, trống trơn, in chinchít những dấu chân lấm bùn. Hai bờ tường gần sát nền, mồ hôi người dính đen kịt như bồ hóng. Cuối ba-ti-măng là một dãy hố xí, liền ngay vớinền nhà, vốn là những hố xí tự hoại nhưng đã bị tắc từ lâu. Có bốn cái,hai cái bên trái hỏng hoàn toàn, đã bị xây bít lại bằng gạch. Hai cáicòn lại không có cửa. Hai cái hố xí cho gần năm trăm con người! Sau mỗibuổi sáng, phân, nước đái đầy ngập, tràn xuống nền nhà, lan rộng đến bốn năm thước. Bọn lính ngục bắt tù con nít phải múc phân vào thùng đem đổra ngoài. Sáng đó, tuy phân đã múc cạn nhưng cứt đái vẫn dính bê bếttrên bậc lên xuống và nền ba-ti-măng. Hàng triệu con dòi ngo ngoe, lúcnhúc từ hai miệng hố xí bó ngược lên tường, lên thấu trần nhà, kết lạithành một tấm thảm dòi. Chúng ngo ngoe bò du ngoạn ra thấu giữaba-ti-măng. Chính cái thảm dòi hàng trăm ngàn con này làm cho Lượm vàThúi phải sởn hết gai ốc.
Trong ba-ti-măng lúc này có khoảng chụcngười, ngồi nằm rải rác hai bên bờ tường. Hầu hết là các cụ già và những người tù bệnh không đi làm cỏ vê được - Người nào cũng gày giơ xương,mắt sâu trũng, da đầu dính bết vào xương sọ. Có vài người nằm co quắp,im lìm như những xác chết. Có mấy ông già ngồi ăn cơm để trong ống bơ,mấy cụ khác cởi áo bắt rận. Đàn dòi ngoe nguẩy bò đến chân các cụ, monmen bò lên ống bơ cơm, các cụ phải dùng quạt nan, quạt phẩy, phẩy dòi bọ ra xa.
Phía cuối ba-ti-măng, cách bậc thềm hố xí mấy bước chân, cómột thằng bé trạc tuổi Thúi đang nằm co quắp giữa đám dòi. Người nó rung bần bật, thỉnh thoảng lại giật lên những cái như bị kim chích.
Lượmvà Thúi bước lại gần nó, chân cố tránh dẫm vào đám dòi đang ngo ngoe,ngọ nguậy quanh mình thằng bé. Trời, trông nó mới nhỏ bé, tội nghiệp làm sao! Hai mắt nó nhắm nghiền, hai má bừng bừng lửa sốt, cặp môi nhợtnhạt, khô rang nứt nẻ, cứ mấp máy như muốn gọi, muốn kêu nhưng không gọi nổi. Mấy con dòi xám ngoét, lông lá từ trên trần nhà rơi bộp xuống mặtnó, bò ngang bò dọc. Nó yếu ớt khẽ lắc đầu như muốn hất xuống nhưngkhông hất nổi. Cảnh tượng đó làm Lượm rung bắn. Em nhào tới, quên hếtbẩn thỉu, lấy tay phủi mấy con dòi xuống đất, dùng chân đá ra xa.
Lượm hỏi một ông cụ ngồi bắt rận gần đó:
- Ông ơi, chớ hắn đã đau lâu chưa ông?
- E có đến tuần ni rồi, cơm cháo không ăn được, rồi cũng chết mất thôi…
Lượm để ý thấy phía trên đầu thằng bé để cái ống bơ hoen rỉ, đựng một vắtcơm tù còn nguyên - Lũ dòi bò ngang bò dọc trên vắt cơm.
Ông cụ nhìn nó lắc đầu buồn bã nói:
- Cơ khổ… không biết con cái nhà ai, ở làng xóm mô, nhỏ một thí rứa, không biết tội tình chi mà cũng bị bắt vô đây
Lượm cúi ép bàn tay trên trán nó sợ hãi kêu lên:
- Ui chao! Nóng rực như bếp than! hắn đau nặng ri mà họ không cho đi nhà thương hả ông?
- Nhà thương nhà thiếc chi cái nhân mạng thằng tù! Ai đau thì họ mong cho mau chết, quăng xác lên xe bò chở đi. Càng đỡ tốn cơm.
Lượm sực nhớ hồi còn làm liên lạc ở trung đoàn bộ đóng trong Mang Cá, có lần nó cũng bị sốt trán nóng hầm hập như thằng ni. Chị y tá nhúng chiếckhăn mặt đắp lên trán, nó thấy dễ chịu hẳn. Nó nói với Thúi:
- Mi đứng đây coi chừng hắn để tau chạy ra ngoài ra ngoài hồ nước kiếm chút nước đắp lên trán cho hắn, may ra hắn đỡ đau.
Lượm mượn ông cụ cái ống bơ chạy vụt ra ngoài. Lao Thừa Phủ lúc này chưa cónước máy. Bọn giặc bắt tù đào cái hố rộng chừng hai thước, sâu chừng một thước. Hàng ngày chúng bắt mấy người tù kéo xe bò chở cái thùng phuy ra sông Hương lấy nước đổ vào hố. Đó là toàn bộ nước ăn, uống, tắm của hơn ngàn con người. Mỗi lần nước xe về, tù chen chúc đến đặc quanh miệnghố, xách ống bơ, lon, xô đẩy nhau đến lấy nước, kêu la như vỡ chợ. Mấythằng lính ngục dùng vụt gậy vụt loạn xạ giữ trật tự. Ai chen khoẻ múcđược nước trong, ai chậm chân nước yếu chỉ còn gạn được ít nước bùn. Lúc này dưới đáy hố chỉ còn lại một vũng sền sệt bùn, nhỏ bằng cái nón.Lượm tụt xuống hố, khéo léo lắm mới gạn được nửa ống bơ nước bùn. Nóxách ống bơ chạy vô ba-ti-măng. Nó khẽ khàng luồn cánh tay xuống gáy đỡđầu thằng bé lên: kéo cái áo rách đang gối đầu, gấp một vạt áo lại đặtlên trán nó. Nó nghiêng miện ống bơ, rưới nước lên vạt áo, cẩn thậnkhông cho chảy phí ra ngoài giọt nào. Vải áo thấm nước tràn xuống cằm,xuống má nó - thằng bé bỗng thè lưỡi liếm những giọt nước tràn xuống hai bên mép.
Thúi nói:
- Hắn khát nước anh ạ
- Nhưng nước như bùn ri uống răng được?
Thằng bé mở bừng mắt ngơ ngác nhìn hai đứa, ánh mắt non dại, đau đớn, hầm hập lửa sốt. Nó lắp bắp nói:
- Cho tui xin hớp nước
Nhìn chút nước còn sót lại trong ống bơ tanh lợm mùi bùn, Lượm bối rối, khổsở. Nó không đủ can đảm kề miệng ống bơ vào miệng thằng bé.
Nó chợtnhìn thấy ông cụ ngồi gần cánh cửa sắt, vừa ăn cơm xong cầm cái lon đựng nước, miệng lon bịt tờ giấy. Ông mở tờ giấy, đưa ống bơ lên miệng nhấptừng ngụm nhỏ như uống nước sâm. Miệng ông chiếp chiếp ngon lành.
Lưỡng lự một lúc, Lượm bước lại giọng nằn nì:
- Ông ơi, ông còn nước cho cháu xin một hớp. Hắn đang khát, tội lắm ông nờ… Nó chỉ tay về phía thằng bé.
Ông cụ nhìn Lượm ngần ngừ:
- Nói thiệt với chú, nước ở đây còn quý hơn cả sâm Cao Ly! Lon nước ni là của mấy người tù đi làm cỏ vê mang về cho từ chiều hôm qua. Ông phải để dành dụm mãi, khi mô thiệt khát mới nhấp vài ngụm…
Giọng ông cụ nghe thảm đến nỗi Lượm không dám nằn nì thêm nữa. Nhưng nó vừa quay đi, ông cụ gọi lại, đưa lon nước và nói:
- Còn lưng lon đó, cháu cho nó uống, dành lại cho ông mấy hớp.
Lượm đỡ lon nước, dạ một tiếng mừng rỡ. Nó cùng với Thúi đỡ thằng bé ngồi dậy, ghé lon nước vào đôi môi khô nẻ của nó:
- Uống tạm vài hớp
Sợ thằng bé uống hết lon nước của ông cụ, Lượm cho nó có cữ. Ba cáinghiêng nhẹ miệng ống bơ, nó dừng tay lại, nhìn cái ống bơ rồi mang trảcho ông cụ. Thằng bé liếm môi thèm thuồng nhưng không dám đòi thêm. Nócó vẻ tỉnh táo, nhìn Lượm, Thúi hỏi:
- Hai anh chắc mới vô tù, tôi ngó mặt thấy lạ…
- Ừ, được tuần ni rồi, nhưng bị nhốt trong xà lim. Sáng ni mới ra khỏi xà lim. Thúi nè, tau với mi đỡ hắn nằm lui ra một chút, nằm sát bên cứtvới nước đái ri chịu chi cho thấu!
Thằng bé vội lắc đầu xua tay:
- Đừng! Đừng! Để tôi nằm đây cũng được. Nằm vô chỗ họ, họ đập chết!
- Được rồi - Lượm nói - Mi cứ để tau. người có chỗ có hỏi, để tau xin cho.
Hai đứa đỡ nó đứng lên, dìu đến quá giữa ba-ti-măng, chỗ này nền xi măng đỡ lấm láp hơn, dòi thỉnh thoảng mới có một vài con bò tới. Hai đứa đặt nó nằm xuống. Nó bỗng chống tay ngồi nhổm dậy, nói giọng hốt hoảng:
- Không nằm chỗ ni mô!
- Tại răng?
- Chỗ ni là của Lép-sẹo, nằm vô là hắn đập chết ngay!
Lượm quạu mặt nói:
- Mi cứ nằm xuống đây, hắn có vô đập tau chịu cho. Hắn cũng là thằng tùlàm nghề ba de móc túi chứ làm quỷ chi mà mi sợ hắn dữ rứa?
- Hắnmạnh lắm anh nờ, mà hắn lại có võ - Thằng bé lơ láo nhìn ra phía cửa, lo sợ thoảng thốt - Hắn cầm đầu một băng tù con nít, toàn tụi trời đánh,ăn cắp, ăn trộm ở các chợ trong thành phố. Bọn tui không ở trong bănghắn, tụi hắn tha hồ bợp tai, đá đít, ăn hiếp, cắt răng cũng phải chịu.Đứa mô ngo ngoe cãi lại, tụi hắn cho mũi ăn trầu ngay! Trước tê chỗ nằmni là của tui, Lép-sẹo hắn đuổi tui đi chỗ khác, rồi họ dồn tui gần sátcầu tiêu…
Nghe nó kể, máu trong người Lượm sôi lên, nó bật chửi:
- Tổ cha hắn chứ, rứa mi làm chi mà bị bắt?
- Tui làm liên lạc cho du kích làng tui, làng Liễu Cốc anh biết không?Tây càn vô làng, thằng lý trưởng, hội tề khai là tui biết chỗ du kíchchôn súng. Tây hắn bắt tui, đập gần chết, bắt tui khai chỗ chôn súng.Nhưng ai dại chi mà khai!
- Mi vô tù đã lâu chưa?
- Hơn hai tháng rồi.
- Cậu tên là chi rứa? - Thúi ngồi xuống cạnh nó hỏi
- Mình tên là Ngạnh - cha mình làm nghề cắt lưỡi câu mà. Cha mình nói,làm người mà không khí khái giống như lưỡi câu không có ngạnh, là đồ bỏđi.
Nghe Ngạnh nói, Lượm và Thúi cùng bật cười - Ngạnh cũng nhoẻn miệng cười theo rồi hỏi Thúi:
- Rứa cậu làm du kích liên lạc cho làng mô rứa? - Thúi ngượng nghịu, lúng túng. Từ ngày nó bị bắt oan cùng với Lượm, bị tụi an ninh gắn cho cáitên Tư Đất, tình báo viên lợi hại của Vệ Quốc Đoàn, rồi sau năm ngày nằm đêm ở chung xà lim với Lượm, nghe đủ thứ chuyện hào hùng, hấp dẫn củađội thiếu niên trinh sát, tự nhiên nó đâm mê cái tên Tư Đất - tình báoviên lợi hại và cảm thấy chán ngán cái nghề bán kẹo gừng tầm thường.“Thằng Ngạnh cũng nhỏ bé, ốm yếu như mình chứ hơn chi” - nó nhìn Ngạnhnghĩ bụng - “Rứa mà nó cũng biết làm liên lạc cho du kích. Tây đập gầnchết không khai chỗ chôn súng. Chừ mà nói thiệt với nó mình chỉ là thằng đi bán kẹo gừng thì ê chề quá”. Nếu không có Lượm chắc nó đã gật đại:“Mình làm liên lạc cho du kích phố Bao Vinh”. Bởi vậy mà nó ngượngnghịu, lúng túng. Lượm như đoán biết nó nghĩ gì, nói luôn:
- Hắn vớitau là trinh sát của trung đoàn Trần Cao Vân. Tụi tao đánh đồn Hộ Thànhrồi bị bắt. Ở trong ni mi có nghe nói trận Hộ Đồn không?
- Có chớ!Cặp mắt Ngạnh vụt sáng lên - Ui chao, bom nổ rầm trời. Đang nửa đêm cảnhà lao vùng dậy hết, ai cũng cầu trời cho bộ đội đánh vô thấu đây, mởcửa lao cho tù thoát - Nó thở dài tiếc nuối như phải bừng tỉnh một giấcmơ đẹp.
Thúi đưa mắt nhìn Lượm biết ơn. Nhưng Lượm không chú ý, nó còn mải nghĩ đến chuyện Ngạnh vừa kể. Nó hỏi:
- Tụi Lép-sẹo ăn hiếp tụi bây rứa mà người lớn họ không bênh à?
- Người lớn họ thèm chú ý chi đến chuyện con nít anh? Thấy đứa mô bị tụihắn đập bể đầu chảy máu họ cũng mặc kệ. Họ sợ dây vô tụi hắn, tụi hắnthù!
Thằng Thúi ngó quanh quẩn hỏi:
- Không biết tối ni mình có chỗ ngủ không anh hè?
Ngạnh nói:
- Cả ba-ti-măng tối đến là chật kín người, chen chân không lọt. Cả giữalối đi họ cũng nằm ngang dọc hết, chất lên nhau như mắm. Chỉ còn chỗ tê - nó đưa tay chỉ khoảng nền xi măng gần sát bậc lên xuống cầu tiêu - làchưa có người nằm thôi.
Thúi rùng mình kêu lên:
- Nằm chung với dòi với cứt rứa thì nằm răng được? Chằng thà tui đứng cả đêm còn hơn!
- Đứng cũng không được mô! - Ngạnh nói - Đứng phía đầu người ta nằm thìai cho đứng, mà đứng phía nào, chân thì vướng họ, họ đạp cho bổ sấp bổngửa. Người ni đạp qua, người tê đạp về chỉ một lúc mà lòi ruột mà chết.
Dòi trên trần nhà vẫn rơi lộp độp trên nền xi măng. Nhiều con có lông có lá, ngo ngoe bò đến chân ba đứa.
Lượm ngồi hai tay bó gối, nghe Ngạnh kể, mắt chăm chăm nhìn mấy con dòi lông lá ngo ngoe bò tới, nhìn hai cầu tiêu ngập ngụa cứt đái, lềnh bềnhgiấy, giẻ rách, nhìn khoảng nền xi măng lúc nhúc dòi mà đêm nay nó phảinằm lên đấy mà ngủ… Một nỗi buồn khổ chán ghê gớm, chưa từng thấy từ đáy lòng dâng lên, làm nó nghẹt thở, chân tay rã rời. Cũng chưa bao giờ cái cảm giác bơ vơ, đơn độc, xâm chiếm và làm tan nát trái tim non nớt củanó như lúc này. Nó muốn oà khóc, muốn chết… Nó gục mặt xuống đầu gối,một ước muốn điên khùng bỗng bừng lên trong óc nó, có một trái bom thậtto, to bằng chục trái bom giật sập cầu Trường Tiền dạo nọ, bất thìnhlình rơi thẳng xuống đây! Bom nổ rung trời, chuyển đất, phá sập tan tành cả nhà lao gớm ghiếc này. Nó cũng sẽ tan tác theo luôn trong tiếng nổdữ dội ấy. Thà chết quách như rứa còn hơn!
7
Trong lúc đó, ngoàisân lao Lép-sẹo cùng đàn em của hắn đang bàn tán sôi nổi về hai thằng tù “ma mới”. Tuy mới tạm thời hạ nhục hai thằng đó nhưng Lép-sẹo vẫn chưaưng bụng. Nó muốn hai thằng đó phải thầm phục khiếp đảm nó, như bọn tùcon nít khác trong lao, như tụi đàn em của nó: “Chứ có mô dám ngangnhiên đối đáp với mình như kẻ ngang hàng” - Láo - Lép-sẹo tức tối lalên. Lép-sẹo năm đó vừa tròn mười sáu tuổi, nhưng đã khá nổi danh ở khắp tất cả các chợ ở Huế là một tay móc túi tài ba, liều lĩnh và gan góc -Nó được các bậc đàn anh trong làng đao búa quen tên, biết mặt - Và cũngthường được các bậc đàn anh rủ tham gia các vụ mần ăn như dỡ ngói, khoét ngạch, trộm các nhà hàng buôn bán lớn, đâm thuê, chém mướn - Điều nàylàm cho Lép-sẹo rất đỗi hãnh diện.
Thật ra quân trộm cắp, du đãngcũng có niềm vinh quang, kiêu hãnh của riêng chúng. Đó là niềm kiêu hãnh về tài trộm cắp, về sự táo tợn, gan liều của chúng trong lúc hànhnghề.. Trong dân chúng đã từng có không ít những lời đồn đại, những giai thoại về tài nghệ gan liều của một số nhân vật trộm cắp khét tiếng.Những lời đồn đại, những giai thoại đó đã tạo nên vinh quang và niềmkiêu hãnh cho chúng, và chính niềm kiêu hãnh và vinh quang bệnh tật nàyđã bóp chết trong chúng sự tự hổ thẹn và nỗi dằn vặt vốn có trong bảnchất của mỗi con người khi làm những điều xấu xa, tàn bạo. Và cũng đãlàm cho chúng càng ngày càng say mê lấn sâu vào con đường tội lỗi chođến khi hết phương cứu chữa.
Tuổi trẻ đều có ước mơ, Lép-sẹo, tên kẻcắp du đãng mười sáu tuổi cũng có ước mơ của nó: sẽ trở thành một taysừng sỏ trong làng đao búa.
Từ những năm thơ dại, đầu óc nó đã chồngchất không biết bao nhiêu chuyện chọc trời, khuấy nước của các tay ducôn, anh chị tứ xứ.
Một trong những niềm ham thích lớn của kẻ duđãng, trộm cắp là tạo được uy quyền trong bất cứ hoàn cảnh nào - tạo nên bằng sức mạnh của quả đấm và nỗi khiếp sợ của kẻ yếu thế. Điều nàyLép-sẹo cũng hấp thụ được từ ngày mới vào nghề, qua các bậc đàn anh vàin hằn sâu đậm trong ký ức nó,
Sau khi bị vào tù vì tội rút nhầm vícủa một tên đại uý cảnh sát mặc thường phục, Lép-sẹo lập tức tìm cáchtạo uy quyền cho nó. Nó lần lượt gây sự và đánh đập rất tàn bạo nhữngđứa sàn sàn tuổi nó. “Đập cho tụi hắn phải sợ đến ba đời” như nó vẫnthường nói. Vừa sáp mặt là gây sự đập lộn luôn, đập phủ đầu, làm cho đối phương không kịp trở tay, không kịp tĩnh trí để đối phó, chỉ còn biếtcúi đầu van lạy xin tha (điều này Lép-sẹo cũng lĩnh giáo được ở các bậcđàn anh). Quả nhiên, vào tù mới mươi hôm Lép-sẹo đã làm cho tụi tù connít thất kinh, khiếp đảm, không còn đứa nào dám ho he, chống cự. Dầndần, nó tập hợp được bọn đàn em hơn chục đứa - đều là bọn trẻ vào tù vìtội ăn cắp, móc túi. Hắn lập thành một băng. Băng của Lép-sẹo được cảlao biết đến và ngay cả tù người lớn cũng phải sợ hãi, kiêng dè. Để băng của hắn đỡ quấy phá, trộm cắp đồ đạc của mình, nhiều anh tù còn lo lót, chiều chuộng nó, cho nó ít nhiều thức ăn, tiền của gia đình tiếp tếhoặc các thứ kiếm được của Tây trong khi đi làm cỏ vê. Điều này đặc biệt làm cho Lép-sẹo vênh vang, khoái chí - Nhất là với đám tù con nít không ở trong băng của nó, nó tha hồ hành hạ, đánh đập. Nhiều đứa là liên lạc của bộ đội du kích bị bắt, căm bọn băng Lép-sẹo lắm, nhưng thân cô thếcô, chúng phải chịu đựng, nhịn nhục. Và càng ngày Lép-sẹo càng lên mặtlàm già. Nhưng hành hạ ra oai mãi với bọn quen mặt Lép-sẹo đã chán, nómong có những đối thủ mới. Và sáng hôm đó, nó may mắn với được Lượm vàThúi, hai thằng ma mới.
Lúc nó sai Lượm nhặt tàn thuốc lá là cốt đểkiếm cớ gây sự. Nó chỉ đợi hai đứa cãi lại một vài câu là hắn sẽ nhàotới, đập vô mặt. Nhưng thái độ đoàng hoàng, chững chạc của Lượm làmLép-sẹo bị hẫng. Nó chưa kịp phản ứng, gây lộn tiếp thì Thúi đã khônngoan cầm tay Lượm kéo tránh đi chỗ khác.
Lúc Lượm và Thúi đi khỏi,Lép-sẹo nghĩ lại càng thấy tức - Bọn đàn em tiếc mất xem một pha đập lộn hấp dẫn, đua nhau khích bác đại ca Lép-sẹo.
- Thằng đó coi chừng cứng cổ ta! Chưa chừng hắn có võ cũng nên.
- Đụng vô hắn e không khỏi sứt đầu mẻ trán với hắn.
Lép-sẹo giận sôi, chít nhổ nước bọt qua kẽ răng - nó nhổ xa đến nỗi bọn đàn em nhìn theo phục lăn - Nó nói, mặt hằm hằm:
- Võ chi? Võ môn hay võ khoai? Rồi tụi bay coi thằng ni - hắn vỗ bộp vàitrái tim cắm dao găm xăm giữa ngực - sẽ bắt cả hai thằng đó phải lạy từdái ta lạy lên.
Lép-sẹo sai một thằng trong băng có miếng thịt thừa ở đuôi mắt trái, chạy vô ba-ti-măng coi hai đứa tù mới làm chi trong đó.Thằng này dạ một tiếng thật to rồi chạy đi theo lệnh của đại ca. Látsau, thằng này chạy ra, kể vanh vách chuyện Lượm và Thúi săn sóc thằngNgạnh và việc hai đứa dám rời chỗ nằm của thằng Ngạnh đến chỗ của đạica.
Lép-sẹo hừ một tiếng dữ tợn, đứng phắt dậy nói:
- Rứa là tụi hắn muốn qua mặt ông nội tụi hắn đây! Tau phải vô đập dập mặt tụi hắn mới được!
Hắn kéo cả băng đi vào ba-ti-măng một. Bọn đàn em mặt rạng rỡ thích thú vìsắp được dự một trận đấm đá ra trò mà phần thắng chắc chắn thuộc vềchúng.
8
Trong ba-ti-măng, Lượm hai tay vẫn bó gối, ngồi gục mặtlặng im, không nhúc nhích. Hai vai Lượm bỗng run nhè nhẹ. Mặc dầu cố hết sức kiềm chế nhưng nó không sao ngăn nổi những giọt nước mắt uất giận,bất lực, buồn khổ trào ra…
Thúi và Ngạnh cũng đoán biết là Lượm đangkhóc. Tự nhiên chúng cũng mủi lòng khóc theo. Hai đứa ngồi sát vào nhau, mắt đau đáu nhìn hai vai Lượm. Thúi ghé sát Ngạnh thì thầm:
- Anh nớ là gan cóc tía đó. Hai lần vượt tù làm cả Ty An ninh, Sở mật thám, Tây xớn rớn… Chừ mà anh như rứa chắc là anh bị đau…
Vừa lúc đó phía ngoài cửa có tiếng lao xao, tiếng bước chân rậm rịch - Lượm nghe tiếng nhưng chẳng buồn nhìn lên.
- Thôi chết, tụi Lép-sẹo - Ngạnh nói giọng run rẩy - Nó định lết về chỗcũ nhưng không đủ sức. Nó nằm vật xúông nền xi măng, người cong lại nhưcon tôm kho, sẵn sàng chịu đấm đá của tụi Lép-sẹo.
Thúi cuống quýt lay vai Lượm:
- Anh Lượm! Anh Lượm! Tụi khi hồi kéo vô đông lắm
Lượm ngẩng mặt lên, băng Lép-sẹo đã bước qua cánh cửa sắt. Lép-sẹo đi đầu,tụi đàn em nhăn nhở kéo theo sau, Lép-sẹo bước đi hay tay khuỳnh khuỳnh, vạt áo mở phanh, làm điệu bộ ngang tàng, anh chị. Nó đi thằng đến bênNgạnh, đứng chạng hai chân, chửi:
- Cố tổ mi! Ai cho mi được nằm chỗ ni? Mi không biết đây là chỗ cố tổ mi nằm à?
Ngạnh ngước nhìn lên lắp bắp:
- Tui lỡ… Anh nớ nói tui tới đây nằm, chớ tui có dám mô!…
- Rứa hắn xui mi ăn cứt mi cũng ăn à? Bốp! Lép-sẹo co chân đá thốc một cú giữa bụng thằng Ngạnh. Ngạnh ôm bụng kêu “ối”
Lép-sẹo co chân định đá tiếp cú thứ hai thì Lượm đứng phắt dậy. Không nói không rằng và nhanh không tưởng được, Lượm nhào tới, vung tay hết cỡ, đấm tạt ngang vào chính giữa quai hàm Lép-sẹo. Cú đấm mạnh đến nỗi quai hàmLép-sẹo nghe thấy một tiếng rắc! Lép-sẹo chuếnh choáng, loạng choạng hẳn người về phía sau. Không để Lép-sẹo kịp phản ứng, Lượm chồm theo, đấmliên tiếp hai cú vào hai bên thái dương đồng thời một chân dộng thẳngvào giữa bụng nó kêu hự! Lép-sẹo tối tăm mặt mũi, ngã nhào xuống nền ximăng. Đầu nó kêu cốp như tiếng gáo dừa xáng mạnh. Không để cho Lép-sẹokịp cựa quậy, Lượm nhảy lên người hắn. Hia mắt Lượm đỏ kè, răng nghiếnmạnh, tay túm tóc Lép-sẹo, kéo giật đầu nó lên, dộng liên tiếp xuống nền xi măng. Cốp! Cốp! Cốp! Một tay dộng, một tay nó đấm tới tấp vào giữamặt Lép-sẹo.. Mặt Lép-sẹo tràn máu, bàn tay Lượm cũng đỏ lòm những máuvì đấm phải răng.
Lượm đánh Lép-sẹo không phải chỉ bằng sức mạnh mandại của nỗi tức giận mà cả với nỗi uất ức, buồn khổ bị dồn nén. Lép-sẹoto con và khoẻ hơn Lượm nhiều, lại có cái gan liều của quân trộm cướpnhưng lúc này nó phải khiếp đảm thật sự. Lép-sẹo đã trăm lần đánh lộn,tay không có, dao có, vỡ đầu toạc mặt là chuyện thường nhưng chưa baogiờ nó gặp phải địch thủ dũng mãnh đến như Lượm. “E hắn giết mình luôncó!”. Ý nghĩ đó xuyên qua đầu hắn như một ánh chớp. Hắn kêu rú thấtthanh:
- Cứu.. cứu… tau… vơ ới…
Bọn đàn em Lép-sẹo, hơn chục đứatừ nãy tới giờ đứng rạt ra một bên. Nhìn thấy Lượm đập đại ca hung dữđến nỗi làm chúng sợ đến tròng con mắt. Chúng đứng nhìn trân trân, đầuóc mụ đi vì sợ. Chúng quên cả việc xông vô cứu đại ca. Tiếng kêu cứu của Lép-sẹo đã kịp thời lay tỉnh chúng. Chúng “a” lên một tiếng nhảy xô hết vào Lượm. Đứa túm tóc, đứa túm cổ, đứa túm tay, chân, kéo vật ngã Lượmxuống nền xi măng. Lượm vùng vẫy cố thoát ra nhưng không sao thoát nổi.Lép-sẹo chồm ngay dậy, ngồi đè lên Lượm, đấm trả với tất cả nỗi nhụcnhã, hận thù. Và bọn đàn em cũng gầm ghè la hét, hè vào đấm đá, cào cấuLượm. Lép-sẹo vừa đấm vào mặt Lượm vừa gào to như đã hoá dại với cáimiệng ròng ròng máu:
- Giết chết cha hắn đi cho tau! Giết chết cha hắn đi cho tau!
Không còn phân biệt đứa nào với đứa nào, chúng xoắn chặt lấy nhau thành một nùi như nùi giẻ rách.
Mấy ông già, mấy người tù bệnh, nhìn đám trẻ đánh nhau sợ đến cứng lưỡi. Họ cuống cuồng vơ áo quần, lon cơm, ống bơ nước chạy nép vào một góc cuốiba-ti-măng - sợ đám đánh nhau lỡ cũng cháy lan như lửa.
Nếu không cóthằng Thúi thì chắc hôm đó tụi băng Lép-sẹo đã đánh chết Lượm. Trong tù, chuyện đánh lộn nhau đến thành án mạng không phải là chuyện hiếm. Khithấy bọn Lép-sẹo nhảy chồm vô Lượm, Thúi chạy lọt ra ngoài. Vừa chạy nóvừa la to chuyển cả khu nhà lao:
- Các bác cai tù ơi! Tụi hắn giết người! Tụi hắn giết người trong tê!
Thế mới biết, quả đấm có sức mạnh của quả đấm, cái miệng có sức mạnh củacái miệng. “Tiếng kêu la ba làng cũng nghe” của Thúi làm hai tên gácngục đang đứng ở lớp sân ngoài phải hoảng hồn. Chúng đoán là có một vụđánh nhau, giết nhau rất ghê rợn đang xảy ra trong ba-ti-măng mới cótiếng kêu váng trời đến như vậy. Mà trong tù, để xảy ra án mạng chúngphải chịu vạ lây. Một Điếu sẽ phạt giam chúng hoặc ít ra chúng cũng bịcúp lương. Chúng xách súng, cầm roi [bad word] bò nháo nhào chạy vô lao.
Chúng xông vào ba-ti-măng một, thấy toán tù con nít đang la hét như điên dại và xoắn lại thành một cục mà đấm đá. Chúng gầm lên:
- Bọn bay định giết nhau để đổ hoạ cho choa à?
Chúng vung roi quật tới tấp lên đầu, lên cổ bọn con nít đang nằm đè lên nhau. Bị đánh quá bất ngờ, bọn trẻ ré lên, vùng bỏ chạy toán loạn - Đứa nàocổ, đầu, lưng cũng phật phồng ngang dọc những lằn roi - Chỉ còn lại mộtmình Lép-sẹo đang cưỡi đè lên bụng Lượm. Thấy mặt Lượm đầy máu, chúngcho rằng Lép-sẹo đang định giết Lượm. Một thằng lính ngục nổi điên, đạpLép-sẹo ngã lăn ra đất rồi cả hai tên hè nhau quất Lép-sẹo túi bụi.Lép-sẹo lăn lộn dưới đất kêu la:
- Hắn định giết tui!
- Mi muốn ra gan hả? Mi lại còn chối à?
- Mi là thằng đầu trộm đuôi cướp, quân ba de móc túi, giết người không gớm tay. Tổ cha mi chớ!
Hai tên lính ngục vừa chửi vừa hè nhau quất Lép-sẹo tới tấp hơn.
Lép-sẹo rên rỉ:
- Con lạy hai bác! Oan con! Oan con!
- Oan này! Oan này! - trái tim có con dao xăm trên ngực Lép-sẹo hứng roinhiều nhất, toé máu như quả tim thật. Lép-sẹo gần như chết giấc. Hai tên lính mỗi tên cầm một tay nó lôi xềnh xệch ra khỏi ba-ti-măng, lẳng nóxuống sân.
Một tên lính chỉ cây roi vào giữa khuôn mặt sưng vù của nó doạ:
- Ông truyền đời cho mi, lần sau còn dở thói du côn giết người, ông tống vào xà lim, cùm chân lại cho chết rục trong xà lim…