Cảnh 1: Dấu chân trên tuyết
“Cái quái gì thế này?” Kiyoshi kêu lên, gập quyển sách lại, quẳng cho tôi rồi nằm dài xuống ghế.
“Anh đã đọc hết chưa?” Tôi hỏi.
“Chậc, ít nhất cũng là chuyện của Heikichi Umezawa.”
“Thế anh nghĩ sao?” tôi hỏi tiếp.
Dạo này Kiyoshi thường có tâm trạng chán nản. Im lặng khá lâu, cậu mới đáp: “Ờ, chẳng khác gì buộc phải đọc cuốn Niên giám điện thoại và Nhữngtrang vàng cả.”
“Nhưng quan điểm chiêm tinh học của ông ta thì sao? Có gì bất thường không?”
Kiyoshi là một chiêm tinh gia nên có vẻ phấn khích với câu hỏi. “Có một vàiphần Heikichi diễn giải theo ý kiến chủ quan,” cậu nói. “Anh biết đó,trong chiêm tinh học thì Cung Mọc có ảnh hưởng đến các bộ phận cơ thểhơn là Cung Mặt Trời, cho nên tôi thấy rằng cách diễn giải của ông tahơi chung chung. Tuy nhiên, kiến thức của Heikichi rất uyên thâm. Tôikhông nghĩ rằng có chỗ nào bị hiểu lầm quá đáng.”
“Thế còn ý kiến của Heikichi về thuật giả kim thì sao?”
“Sai lầm hoàn toàn . Kiểu tư duy đó phổ biến ở thế hệ trước. Y như môn bóngchày. Ban đầu khi mới xuất hiện tại Nhật Bản vào những năm 1880, ngườita nghĩ đó là cách để rèn luyện tinh thần theo phong cách Mỹ, nhưng họđã đi quá xa. Vấn đề trở nên nghiêm trọng đến nỗi nếu như đánh hụt tráibóng, họ sẵn sàng mổ bụng tự sát theo nghi thức harakiri của tinh thầnVõ sĩ đạo. Heikichi Umezawa cũng giống như vậy, nhưng tôi tin rằng ôngta vẫn hiểu biết hơn những người có suy nghĩ rằng thuật giả kim làphương thức biến chì thành vàng.”
Tôi là Kazumi Ishioka và làtín đồ cuồng nhiệt của truyện trinh thám, thậm chí gọi tôi là con nghiện của thể loại này cũng không sai. Nếu trong một tuần mà không đọc cuốntruyện trinh thám nào là tôi sẽ lên cơn nghiện ngay lập tức, tôi sẽ đivật vờ như thể bị mông du và choàng tỉnh tại một hiệu sách, lục tìm bằng được một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Tôi đã đọc hầu hết các truyệntrinh thám, ly kỳ trong đó có truyện về vương quốc cổ đại Yamatai gâytranh cãi, truyện về tên cướp ngân hàng đã đánh cắp 300 triệu yên vẫnchưa bị bắt. Không phải tôi muốn khám phá tri thức hay gì, chẳng qua làkhoái giải trí bằng những câu truyện tầm phào mà thôi. Trong tất cả cáctruyện trinh thám mà tôi đã đọc, Tokyo hoàng đạo án rõ ràng là câuchuyện hấp dẫn nhất. Một loạt án mạng đã xảy ra ngay trước Chiến tranhThế giới thứ hai, đúng thời điểm diễn ra cuộc đảo chính quân sự bấtthành vào ngày 26 tháng Hai năm 1936 vẫn được biết đến với tên gọi “Sựkiện 26-2[1]”.
[1] Đảo chính do một nhóm sĩ quan lục quân trẻtuổi phái bảo hoàng nhằm lật đổ chính phủ để lập một nội các mới. Nhómsĩ quan này dẫn khoảng 1.400 người phần lớn là tân binh đi vây các dinhthự và giết chết năm Bộ trưởng phái dân sự, nhưng lại để Thủ tướng thoát được. Tuy họ ủng hộ Thiên hoàng, đòi ông ra thân chính, song Thiênhoàng Hirohito lại không chấp nhận phiến loạn. Đảo chính thất bại và các sĩ quan cầm đầu bị hành quyết ngay giữa Tokyo.
Câu chuyện dịthường, khó hiểu, kỳ quặc và không thể tin nổi này nhanh chóng lan rakhắp đất nước như một vết dầu loang. Trong bốn mươi năm qua, biết baotrí thức và thám tử nghiệp dư đã cố gắng giải mã câu chuyện, nhưng đếnhôm nay, vụ án vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Tư liện về vụ án cùngchúc thư của Heikichi Umezawa đã được biên soạn thành một cuốn sách vàxuất bản trong khoảng thời gian tôi chào đời, ngay lập tức trở thànhcuốn sách ăn khách nhất. Nó gây ấn tượng vì đã nhấn mạnh vào khía cạnhthất bại trong việc phá giải các vụ án giết người, tượng trưng cho bóngtối bao quanh Nhật Bản thời kỳ tiền chiến.
Điều khủng khiếp vàbí ẩn nhất về vụ án này là sáu thiếu nữ đã bị giết đúng như Heikichi môtả. Hơn nữa, cả sáu tử thi đều bị mất một phần cơ thể khác nhau và đượcchôn ở sáu nơi riêng biệt cùng với những nguyên tố kim loại.
Điều kỳ quặc là Heikichi đã bị giết trước khi xảy ra cái chết của các congái và cháu gái ông ta. Heikichi có nhắc đến tên của một vài người,nhưng họ đều có chứng cứ ngoại phạm. Tất nhiên, tất cả những chứng cứ ấy đã được xác minh kỹ càng để giải tỏa mọi nghi ngờ. Bản thân Heikichi là người có động cơ lớn nhất, nhưng ông ta đã chết trước khi xảy ra nhữngvụ giết người, nên đương nhiên ông ta không thuộc diện nghi vấn.
Do đó, theo lẽ thường thì kẻ sát nhân không phải là người trong gia đình.Công chúng nêu ra hàng trăm giả thiết nhưng chỉ khiến mọi chuyện thêmrối tung. Mọi động cơ gây án khả dĩ đều đã được giả định nhưng tất cảđều rơi vào ngõ cụt.
Từ cuối những năm 1970, vụ án trở thành cảm hứng cho nhiểu cuốn sách với nhiều lý giải khác nhau nhưng hầu hết đềukhá sơ sài và cấu tứ rất tệ, vậy mà chúng vẫn bán chạy. Vì thế đã cóthêm rất nhiều cuốn sách kiểu này được xuất bản, chẳng khác gì một cơnsốt vàng.
Tôi còn nhớ có một vài ý tưởng lố bịch hơn nữa đã được đưa ra: Giám đốc Cảnh sát thành phố có liên can; Thủ tướng cũng nhúngtay vào; Đức Quốc xã muốn dùng các thiếu nữ cho những thí nghiệm sinhhọc; và - ý tưởng hài hước nhất theo quan điểm của tôi - thổ dân ăn thịt người New Guinea đã ăn những phần cơ thể đó. Các giả thiết này chẳngkhác gì một trò đùa dở ẹc nhưng độc giả lại thấy thích thú. Khi một tạpchí ẩm thực cho đăng bài về nghệ thuật ăn thịt người thì mọi chuyện rõràng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Ý tưởng điên rồ cuối cùng là, ngườingoài hành tinh là thủ phạm của vụ án.
Với tôi, tất cả những ýtưởng trên đều thiếu mất hai điểm then chốt: làm sao một kẻ ngoài cuộcđọc được những ghi chép của Heikichi và vì lý do gì người đó lại muốnthực hiện kế hoạch của ông ta?
Cảnh sát chú ý đến chi tiết người con gái lớn nhất, Kazue, có những mối liên hệ với Trung Quốc và nóikhông chừng là một gián điệp. Vì vậy xảy ra suy đoán rằng có thể một cơquan quân sự bí mật đã ám sát những cô gái nhà Umezawa.
Tôi thìdè dặt đưa ra giả thiết là có ai đó đã tìm thấy những ghi chép củaHeikichi và sử dụng nó để che đậy tội ác. Hắn có quan hệ tình ái với một trong các cô gái, nhưng bị cô ta bỏ nên hắn trả thù. Nếu như hắn giếttất cả sáu cô gái, thì động cơ của hắn sẽ không bị phát hiện. Tuy nhiên, giả thiết này không hoàn toàn khớp với thực tế khi cơ quan điều tra kết luận rằng các thiếu nữ nhà Umezawa bị mẹ canh chừng rất nghiêm ngặt vàchưa có bất kỳ người bạn trai nào. Hẹn hò mà không được phép của bố mẹlà điều không thể chấp nhận được vào những năm 1930. Và nếu giả sử mộttrong các cô gái này yêu đương và phụ bạc người tình thật, thì chắc chắn chàng trai phải tìm cách nào đó đơn giản hơn để giết kẻ phụ tình, chưakể hung thủ chẳng có lý do gì để tiếp cận được những ghi chép củaHeikichi.
Tất cả đều vô nghĩa. Cuối cùng tôi không suy ngẫm về những án mạng kỳ quặc này nữa.
Mùa xuân năm 1979, dùlà một anh chàng đầy nhiệt huyết, Kiyoshi Mitarai cũng cảm thấy nảnlòng. Cậu có cảm giác mình không đạt được phong độ đỉnh cao để giải mãbí ẩn của vụ án. Nghệ sĩ thường có cá tính riêng và Kiyoshi cũng khôngphải là ngoại lệ. Cậu có thể đột nhiên vui vẻ nhờ vị dễ chịu của kemđánh răng hoặc bất chợt tỏ ra khó chịu khi cửa hàng yêu thích đổi tôngmàu khăn trải bàn. Tâm trạng bực bội của cậu thường kéo dài trong vàingày. Nói cho đúng cậu không phải là một chàng trai dễ gần. Tôi đã quenvới tính khí nghệ sĩ đồng bóng thất thường ấy, nhưng tật xấu này giờ đây còn tồi tệ hơn trước. Kiyoshi lừ đừ như con voi sắp chết khi bước vàogian bếp hay nhà vệ sinh. Thậm chí khi gặp khách hàng, trông cậu cũngchẳng khá lên tí nào. Bình thường với tôi cậu rất bỗ bã và có phần hơixấc xược, nhưng bây giờ thì không như vậy. Nói thật, tôi lại khoái nhưtrước hơn.
Kiyoshi và tôi gặp nhau năm ngoái, kể từ đó hễ rảnhlà tôi lại đến lớp học chiêm tinh của cậu. Tôi giúp những việc vặt khicó sinh viên và khách hàng ghé thăm văn phòng. Một hôm, bà Iida đến chơi và nói thẳng rằng cha của bà có dính líu đến vụ án mạng hoàng đạo nổitiếng. Bà đưa cho chúng tôi một bằng chứng mà rõ ràng chưa ai từng thấybao giờ, và nói đại ý rằng với bằng chứng này chúng tôi có thể phá đượcvụ án. Kiyoshi không nổi tiếng mặc dù được người trong giới rất tôntrọng. Việc người phụ nữ tin tưởng giao cho cậu ấy bằng chứng đáng giánhư vậy khiến tôi thêm nể trọng Kiyoshi. Tôi cảm thấy hãnh diện khi được kết giao với cậu.
Tôi đã mất một thời gian dài suy ngẫm về vụán này nên nhanh chóng nhớ ra toàn bộ sự việc. Trái lại, Kiyoshi chẳnghề biết gì về vụ án, mặc dù cậu là một chiêm tinh gia. Tôi đã phải lụctìm cuốn Tokyo hoàng đạo án trên giá sách của mình, phủi sạch bụi vàgiải thích mọi chuyện cho cậu.
“Vậy anh cho rằng, Heikichi Umezawa tác giả của những ghi chép này đã bị giết đúng không?” Kiyoshi hỏi, vẫn nằm dài trên ghế.
“Đúng. Anh sẽ tìm thấy các chi tiết trong phần thứ hai của cuốn sách.”
“Tôi thấy mệt. Kiểu chữ nhỏ xíu này báo hại mắt tôi.”
“Ờ, thôi nào, đừng cằn nhằn nữa.”
“Thế anh không thể tóm tắt cho tôi được à?”
“Cũng được. Tôi nghĩ là trước tiên anh muốn nghe qua về những vụ án phải không?”
“Đúng vậy.”
“Sẵn sàng chưa?”
“Cứ bắt đầu đi thôi…”
“Tốt, cái gọi là Tokyo hoàng đạo án thực chất gồm ba vụ án riêng biệt. Vụ thứ nhất là cái chết của Heikichi Umezawa, vụ thứ hai là cái chết của Kazue Kanemoto, con riêng vợ ông ấy và vụ thứ ba là các án mạng Azoth. Ngườita tìm thấy xác Heikichi trong xưởng vẽ của ông vào ngày 26 tháng Hainăm 1936. Ngày tháng trên bản ghi chép kỳ quái kia là năm ngày trước cái chết của nạn nhận. Nó được tìm thấy trong ngăn kéo bàn làm việc củaHeikichi.”
“Kazue bị giết tại nhà riêng ở Kaminoge, khuSetagaya, cách khá xa nhà Umezawa và xưởng vẽ của Heikichi ở Ohara, khuMeguro. Cô ấy bị hãm hiếp, nên có thể suy luận rằng kẻ sát nhân là đànông, và có khả năng là một tên trộm. Trùng hợp ngẫu nhiên là Kazue bịgiết cùng một thời gian với Umezawa và những người khác.”
“Ngaysau cái chết của Kazue, vụ giết người hàng loạt xảy ra, giống như đượcnêu trong ghi chép của Heikichi. Mặc dù vậy, các nạn nhân không bị giếttheo thứ tự lần lượt mà tất cả bị giết cùng một lúc. Có lẽ gia đìnhUmezawa đã bị trù ếm. Mà này, ngày 26 tháng Hai năm 1936 có gợi cho anhđiều gì không?”
Kiyoshi đáp gọn: “Sự kiện 26 tháng Hai.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Tôi rất ấn tượng với kiến thức của anh về lịch sử NhậtBản! Cái chết của Heikichi xảy ra đúng ngày đó. Ờ, cuốn sách đã nói gìnhỉ? Chậc, hay đấy. Nhân tiện, ta hãy xem gia phả nhà họ, cùng tuổi củamỗi người được tính đến ngày hôm đó, 26 tháng Hai năm 1936.”
“Có cả thông tin về nhóm máu của họ nữa cơ à?” Kiyoshi hỏi.
“Phải, có cả nhóm máu nữa. Thông tin trong bản ghi chép đều đúng và chính xác. Nhưng Heikichi không đả động gì đến ông Yoshio, em trai ông ấy, cho nên tôi sẽ kể anh nghe về người này. Yoshio là một cây viết chuyên luận cho các tạp chí du lịch, tiểu thuyết dài kỳ cho các báo, phóng sự v.v… Khianh trai bị giết, ông ấy đang ở phía đông bắc của Tohoku, đang đi lấytin để viết báo. Chứng cứ ngoại phạm của ông ấy đã được xác minh, nhưngcũng đáng để xem xét. Mà thôi, chúng ta sẽ trở lại vấn đề Yoshio sau.”
“Tiếp theo là Masako, vợ thứ hai của Heikichi. Tên thời con gái của bà ấy làHirata. Bà xuất thân trong một gia đình giàu có ở Aizu-wakamatsu. Cuộchôn nhân đầu tiên của bà với Satoshi Murakami, giám đốc một công ty xuất nhập khẩu, là do sự sắp đặt của hai bên gia đình. Họ có với nhau bangười con là Kazue, Tomoko và Akiko.”
“Tôi biết,” Kiyoshi nói. “Còn Heitaro Tomita thì sao?”
“Vào thời điểm xảy ra vụ án, anh ta 26 tuổi, chưa lập gia đình và đang phụgiúp mẹ ở xưởng tranh de Médicis. Nếu Heikichi đúng là bố đẻ của anh tathì chắc chắn ông ấy phải sinh ra Heitaro năm 22 tuổi.”
“Thế nhóm máu có xác định được huyết thống giữa Heikichi và Heitaro không nhỉ?”
“Trường hợp này thì không. Heitaro và mẹ cùng mang nhóm máu O, Heikichi nhóm máu A.”
“Hiện chúng ta biết Heikichi và Yasue, mẹ của Heitaro, đã chia tay ở Tokyo và sau đó gặp lại nhau. Họ gặp nhau vào năm 1936 đúng không nhỉ?”
“Chắc chắn như vậy,” tôi trả lời. “Khi Heikichi có hẹn ở ngoài thì thườngchính là đi gặp Yasue. Có vẻ ông tin tưởng bà này vì họ cùng chung sởthích nghệ thuật. Heikichi không gần gũi với Masako hay các con riêngcủa mình theo kiểu đấy.”
“Vậy thì tại sao ông ấy lại kết hôn với Masako? Mà này, Masako và Yasue có hòa thuận không?”
“Tôi nghĩ là không. Có thể họ vẫn chào hỏi xã giao, nhưng Yasue hiếm khisang nhà chính mỗi lần tới thăm Heikichi. Ông ta thường ở trong xưởng vẽ của mình. Như thế Yasue có thể dễ dàng đến thăm Heikichi mà không aibiết cả. Có thể Heikichi vẫn còn yêu Yasue. Ông kết hôn với Tae vì côđơn sau cái chết của bà mẹ. Rồi vướng vào mối quan hệ với Masako - ừ,‘vướng’ có lẽ là từ chính xác để giải thích cho tình cảnh của ông ta.”
“Vậy, có thể hiểu là Yasue và Masako không bao giờ cùng một phe…”
“Đúng thế.”
“Heikichi có gặp Tae sau khi họ ly hôn không?”
“Chưa bao giờ. Nhưng cô con gái Tokiko của họ thì thường xuyên đến thăm Tae ở Hoya. Cô lo lắng cho Tae, bà này có một cửa hàng nhỏ bán thuốc lá.”
“Heikichi đúng là người lạnh lùng nhỉ?”
“Chậc, Heikichi không bao giờ đến thăm Tae, ngược lại Tae cũng vậy.”
“Tae và Masako cũng không hợp nhau đúng không?”
“Tất nhiên là không rồi. Masako đã cướp chồng của Tae. Chắc chắn Tae căm ghét bà ta. Đó là bản chất của phụ nữ mà.”
“Kazumi à, anh nói như thể anh hiểu hết tâm lý của phụ nữ ấy!”
“Cái gì?... Không phải đâu!” Tôi làu bàu.
“Nhưng nếu Tokiko quan tâm đến mẹ đẻ thì tại sao cô ấy lại vẫn ở với nhà Umezawa? Cô ấy có thể đến sống với Tae cơ mà?”
“Tôi không biết. Tôi không phải là chuyên gia về tâm lý phụ nữ!”
“Thế còn bà Ayako, vợ của Yoshio? Bà ấy có thân thiết với Masako không?”
“Họ cũng khá hợp nhau.”
“Sao Ayako gửi hai con gái mình đến sống với Masako, nhưng chính bà ấy lại không dọn về đó ở nhỉ?”
“Biết đâu giữa mẹ con họ có mâu thuẫn.”
“Quay trở lại với Heitaro con trai Yasue. Cậu bé và ông bố Heikichi có thường xuyên gặp nhau không?”
“Tôi không biết. Cuốn sổ cũng chẳng nhắc gì đến thông tin này cả. Heikichithường đến phòng trưng bày de Médicis ở Ginza nên chắc chắn ông ta cógặp Heitaro đôi lần. Có lẽ cha con họ khá thân thiết với nhau.”
“Hừm. Lối sống lập dị của Heikichi - vốn dĩ khá xa lạ với giới họa sĩ - chắc chắn tạo ra những mối quan hệ phức tạp.”
“Đúng vậy,” tôi nói. “Một bài học tốt về đạo đức cho anh, phải không?”
“Bài học gì?” Kiyoshi hỏi, không để ý tới sắc thái châm chọc của tôi. “Tôicó ý thức sâu sắc về đối nhân xử thế hơn ông ta nhiều, ít nhất cũng đủđể dạy lại người khác. Chúng ta cùng xem các chi tiết về vụ án củaHeikichi Umezawa nhé.”
“Chắc chắn rồi. Tôi là chuyên gia về chuyện đó mà.”
“Thật á?” Kiyoshi cười toét miệng.
“Ừ. Tôi thuộc lòng mọi chuyện và có thể giúp anh viết thành sách ấy chứ, nhưng nhớ là phải thiết kế các tranh thật đẹp đấy nhé.”
Kiyoshi ngáp dài. “Ôi, ước gì tôi không phải nghe bài thuyết giảng nhàm cháncủa anh nữa, nhưng thôi cứ tiếp tục, anh nói tiếp đi…”