Mạc thị vệ tuốt kiếm khỏi vỏ, lao người về phía trước. Người dân đứng phía dưới chỉ thấy một cái bóng áo trắng loáng lên, thanh kiếm đã lao thẳng vào yết hầu của A Phong. Chiêu này vừa nhanh, vừa hiểm độc, A Phong đến tận lúc này vẫn chưa kịp lấy vũ khí của mình ra, e rằng sẽ phải táng mạng dưới trường kiếm của họ Mạc.
Chỉ thấy A Phong vung hai bàn tay lên cản trước đường kiếm. Đám đông phía dưới không khỏi hoảng hồn la lên. Tuy nhiên, thay vì tiếng động kim khí đâm vào da thịt thì lại có một tiếng rít dài vang lên tiếp theo đó là một chuỗi âm thanh leng keng chập chèng. Thuốc Nổ tinh mắt nhận ra trên tay của A Phong không biết tự lúc nào đã đeo một cái bao tay bằng kim ti cực kỳ bền chắc.
Thanh kiếm chém lên trên thì không để lại bất cứ một vết xước nào. Cậu cũng không khỏi tặc lưỡi về mấy thứ võ binh kỳ dị của người Trung Hoa. Nếu không phải cái bao tay khó công phá thì e rằng lúc này A Phong đã bị chặt đứt hết cả mười ngón rồi.
A Phong không chiếm được tiên cơ, nhanh chóng bị Mạc thị vệ dồn ép. Ưu tiên ban đầu của ông ta là dùng hư chiêu vào vùng mắt của A Phong rồi lợi dụng điểm mù mà tấn công vị trí yếu hại của đối phương. Có điều lặp đi lặp lại một lối tấn công cũng rất nguy hiểm. Đợi cho Mạc thị vệ vung tay chém hụt, A Phong lách đầu ra, tung một đòn cầm nã vào ngay tay mặt cầm kiếm của Mạc thị vệ. Ông ta chỉ cảm thấy cẳng tay tê rần, suýt nữa thì không nhịn được mà buông kiếm. Chu Hy tiếc rẻ:
“Lính dù sao cũng chỉ là lính, kinh nghiệm chiến đấu không đủ, nếu đòn vừa rồi tay phải của A Phong tiến tới hai tấc nữa thì đã nắm được mạch môn của đối phương, lúc đó ván này đã định rồi.”
Mạc thị vệ dù sao cũng là quan Đô Chỉ Huy Thiêm Sự trong triều, lại bị đem ra so sánh với tên lính quèn thì không khỏi đỏ mặt giận sôi. Ông ta chuyển hướng sang tấn công hạ bàn của A Phong. Chiêu thức này với quan niệm của người võ lâm ở đây thì có thể xem là hơi hèn mọn bỉ ổi. Có điều danh dự quốc gia xem ra vẫn quan trọng hơn.
A Phong một chiêu điểm vào trên thân kiếm, Mạc thị vệ nhanh tay lẹ mắt xoay ngang lưỡi kiếm lên mà chống đỡ được. A Phong lực đạo canh không chuẩn, thân mình hơi chúi về phía trước. Mạc thị vệ chỉ đợi có thế, tung ra một chiêu kiếm quét ngang cẳng chân, nếu trúng phải chiêu thì chỉ e rằng A Phong sẽ trở thành người tàn phế ngay lập tức.
Đám binh lính theo hầu Chu Hy đều hét lên:
“Cẩn thận đấy”
Chỉ thấy A Phong mũi chân hơi điểm một cái, thân hình vút lên không trung. Mạc thị vệ cười ha hả, không ngờ đối phương lại thực hiện chiêu số ngây thơ như thế. Không trung vốn không hề có điểm tựa, dù có là cao thủ đệ nhất cũng khó lòng mà có thể di chuyển cơ thể một cách bình thường. Ông ta không hề chờ đợi một khoảnh khắc, trường kiếm đâm thẳng, nhằm vào vị trí huyệt Đan Điền của A Phong.
A Phong chẳng có ý định ngăn đòn, hai tay biến chiêu, vỗ một đòn xuống huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu của Mạc thị vệ, rõ là một đường lưỡng bại câu thương. Lương Thế Vinh ở trên đài đứng bật dậy, miệng hô to:
“Không hay rồi, đấy là kiếm khí.”
Từ đầu ngón tay trỏ trái của A Phong bắn ra một luồng kình lực vô hình va chạm với đầu mũi kiếm Mạc thị vệ bên kia. Lực đạo không quá mạnh, nhưng nó đã đẩy thanh kiếm cong vồng sang một bên. Kết quả là khi nó bật ngược trở lại, chỉ có thân kiếm vỗ vào người của A Phong chứ mũi kiếm thì không đâm trúng. Hắn bật nhẹ người ra rồi tiếp đất, mặt mũi vẫn hồng hào tươi tỉnh, chẳng có dấu hiệu gì là không ổn.
Trong khi đó Mạc thị vệ bị vỗ một cái vào huyệt Bách Hội. Đây là trọng huyệt ở trên đầu, gặp phải kình lực mạnh hoàn toàn có thể dẫn tới chết ngay tại chỗ. Cũng may, Mạc thị vệ chỉ phun ra một ngụm máu lớn, thân hình như con diều đứt dây bay thẳng ra đằng xa.
Hắn từ từ đứng lên, tuy thương thế khá nặng nhưng không ảnh hưởng gì tới tính mạng.
Đây là lần thứ hai Thuốc Nổ thấy một người bộc phát nội công. Lần trước Sắn là dùng chưởng pháp còn lần này A Phong dùng chỉ pháp. Tuy hai người đó không sử dụng nội công liên tục, hẳn là do tu tập chưa đủ hỏa hầu, xong đều là chiêu áp đáy hòm, tới lúc mấu chốt đem ra đều có thể chuyển bại thành thắng.
Kể lể dài dòng như vậy nhưng tính từ đầu trận đấu tới giờ, hai bên qua lại còn chưa tới năm hiệp, phía Đại Việt đã thua mất keo rồi. Chỉ xét riêng về thời gian thi đấu thì trận này rõ ràng là không hề cân bằng và hấp dẫn như cậu dự đoán ban đầu.
Cậu lướt qua một bên, chỉ thấy Lương Thế Vinh rời ghế, miệng nói với Chu Hy:
“Mời sứ thần đại nhân.”
Đúng như dự đoán của cậu, Lương Thế Vinh dù sao cũng là quân chủ lực, nếu trận đầu đã thua rồi thì tất nhiên trận thứ hai ông ta phải ra tay để một tiếng trống xốc lại lòng quân. Nếu không, ván cá cược này e rằng chẳng có hy vọng.
Chu Hy đáp:
Loading...
“Nghe nói Lương Trực Học Sĩ ngày xưa đã từng có thời học công phu ở Thần Sơn của quý quốc. Thần Sơn phái là thái sơn bắc đẩu của thiên hạ võ lâm, sánh ngang với Thiếu Lâm, Võ Đang ở bản triều. Nếu bổn sứ thách đấu võ công thì e rằng chính là múa rìu qua mắt Lỗ Ban. Lần này thi văn đấu vậy.”
Lương Thế Vinh nhìn qua Thuốc Nổ, nghĩ nghĩ muốn tạo chút lợi thế cho người cuối cùng của bên ta nên vội lên tiếng:
“Vậy thì theo ý của sứ thần đại nhân. Có điều nếu để tiểu quan ra tiên cơ thì không khỏi quá thất lễ. Vẫn mong sứ thần đại nhân ra đề mục.”
Chu Hy nhoẻn miệng cười, chợt thấy cuốn sổ thu thuế đinh mà quan huyện đã trình Lương Thế Vinh đọc trong lúc chờ đợi Thuốc Nổ lúc nãy. Hắn cầm lên, hắng giọng nói:
“Nghe nói nước Nam, công nghệ làm giấy có chút tiểu xảo hơn người. Bản sứ vẫn luôn muốn được thấy tận mắt. Như quyển số này đây, giấy mỏng mà lại không thấm mực, thật là thần kỳ một phương. Nhân có Trực học sĩ ở đây, có thể cho ta biết, một trang sách này dày bao nhiêu?”
Dân làng nghe vậy đều ồ lên, không khỏi có tiếng xì xào bàn tán Chu Hy ra đề mục không thỏa đáng. Chỉ thấy một người lính sai nha tiến lên quát mọi người yên lặng thì trật tự mới trở lại bình thường.
Lương Thế Vinh chống cằm, suy nghĩ hồi lâu thì mắt ông sáng lên:
“Ta có cách”
Đoạn bảo lính tới dùng thước đo tổng độ dày của quyển sách, sau đó lại đếm số trang rồi chia tổng độ dày cho số trang sẽ có được độ dày của một trang sách. Chu Hy thán phục nói:
“Vẫn nghe ở phương Nam có người quan Trạng là bậc kỳ tài toán học đương thời, quả nhiên là danh bất hư truyền. Bổn sứ cam bái hạ phong.”
Mọi ánh mắt lúc này đều dồn về Thuốc Nổ và A Hoảng. Lương Thế Vinh cũng hơi lộ ra vẻ chờ đợi. Dù sao đây cũng là bộ mặt của quốc gia dân tộc, không phải là chuyện để đùa, không biết tiểu tử Trần Ngọc ở thôn quê này có đấu lại được nhân tài phương Bắc hay không.
Thuốc Nổ cũng chẳng muốn khách sáo, cậu vào luôn đề tài:
“Trộm nghe trong thần thoại của quý quốc, Bàn Cổ khai thiên tích địa, Nữ Oa đội đá vá trời”
“Các hạ biết những truyền thuyết đó, kể ra cũng không phải là kẻ thất học hoàn toàn đi” – A Hoảng lên tiếng.×— QUẢNG CÁO —
Thuốc Nổ cũng chẳng muốn cho đối phương cái đề tài gì cao xa, có điều toán học ngay cả trong những thứ đơn giản bình thường nhất cũng có thể khiến người ta suy ngẫm không dứt. Cậu nhàn nhạt kể chuyện:
“Tại hạ có nghe một sự tích như thế này. Chuyện kể rằng ngày xưa các vị thần linh hay tụ tập ở khu vườn của Tây Vương Mẫu. Trong đó hai người Thủy thần Cộng Công và Hỏa thần Chúc Dung tính tình như nước với lửa, tranh cãi nhau không dứt. Bàn Cổ thấy thế, vì muốn hai người cùng chung hợp tác mà mới đưa ra cho họ một thử thách như thế này. Bàn Cổ tuyên bố sẽ rào một khu vực của khu vườn thần tiên này lại, đặt vào trong đó 19 hoặc 20 cây đào. Sau đó ngài lấy một bức tường lớn ngăn khu vực ra làm đôi, rồi mời hai người Cộng Công và Chúc Dung vào hai phía khác nhau trong đó. Người ở bên này chỉ có thể nhìn thấy được số đào của mình chứ không nhìn thấy được số đào ở bên kia. Bàn Cổ sẽ đi lần lượt giữa hai bên, bắt đầu từ Cộng Công, mỗi lần chỉ hỏi đúng một câu hỏi là ngươi đã đoán được số đào của người kia hay chưa. Mỗi người chỉ được phép trả lời là có hoặc không và Bàn Cổ sẽ đi sang nói kết quả này cho người đối diện biết, sau đó lại hỏi câu tương tự, rồi quay lại. Cứ lặp lại như vậy. Tới cuối cùng ở lần thứ 8 Bàn Cổ hỏi Chúc Dung thì ngài đã đoán được số đào của Cộng Công và lần thứ 9 Bàn Cổ hỏi Cộng Công thì ngài đã đoán được số đào của Chúc Dung. Hỏi mỗi người có bao nhiêu cây đào?”
A Hoảng nghe xong câu chuyện này thì đầu đã to như cái đấu. Hắn lắp bắp:
“Đoán được hay không thì ngay từ đầu đã biết được rồi, cần gì tới lần thứ 8 hay thứ 9 mới đoán được. Lại còn hỏi mỗi người có bao nhiêu cây, cái đó chỉ có Hỏa Thần và Thủy Thần biết được, làm sao ta biết?”
“Ngươi cứ từ từ suy nghĩ đi, thời gian vẫn còn nhiều” – Thuốc Nổ từ tốn đáp.
Cả Lương Thế Vinh và Chu Hy đều làm ra vẻ mặt đăm chiêu. Dân làng ở dưới thì bắt đầu nghị luận. Họ cũng chẳng nghe hiểu được hết câu chuyện của Thuốc Nổ, chỉ là phần lớn ở dưới bàn tán đây như một chuyện cười, xem Thuốc Nổ lát nữa xuống đài như thế nào.
Được một lát thì A Hoảng đã lẩm bà lẩm bẩm cái đề bài trong miệng như bị tẩu hỏa nhập ma. Lương Thế Vinh ngồi bên trên gõ trán giống như hơi tìm ra manh mối gì nhưng vẫn không có được cái nhìn tổng quát nhất. Còn Chu Hy thì đã vắt chéo chân lên rung đùi, chắc hẳn trận này hắn đã thắng:
“Có thể ngươi còn chưa nắm rõ mỗi câu đố nói ra, bản thân mình phải tự giải được, nếu không sẽ bị phán là thua cuộc. Mà dù sao thì lời nói ra cũng không rút lại được nữa. Ta khuyên ngươi nên tự giác mà chịu thua đi.”
A Hoảng vẫn chẳng có chút dấu hiệu nào là tìm ra một manh mối đáng giá. Hắn đợi cho hương đo thời gian cháy hết rồi nói:
“Nếu ta là một trong hai người Hỏa thần hoặc Thủy Thần thì còn có xác suất năm phần đoán được số cây của người kia. Nếu là người ngoài thì hoàn toàn không có cơ sở. Ngươi giải thích đi.”
Thuốc Nổ ung dung đáp:
“Nếu ở lần thứ nhất, Bàn Cổ hỏi Cộng Công mà bên phía Cộng Công có hai mươi cây đào sẵn rồi, Cộng Công sẽ trả lời như thế nào?”
“Tổng số đào chỉ là 19 hoặc 20, nếu bên Thủy Thần đã có 20 cây thì tất nhiên bên Hỏa Thần chẳng có cây nào, Cộng Công sẽ trả lời là có” – A Hoảng ngẫm một chút rồi đáp.
“Nhưng rất tiếc là Cộng Công trả lời là không, vậy điều đó nói lên gì cho Chúc Dung?”
A Hoảng im lặng không đáp, người trả lời lần này là Lương Thế Vinh:
“Nghĩa là Chúc Dung biết được bên phía Cộng Công chỉ có tối đa là 19 cây đào.”
“Vậy nếu lần này Cộng Công được hỏi, mà bên ngài lại không có cây đào nào, ngài sẽ trả lời như thế nào?”
A Hoảng đã bắt đầu thể hiện vẻ mặt nhăn nhó vì khó hiểu. Lương Thế Vinh ngẫm một lúc lâu rồi vỗ lên bàn:
“Vì Chúc Dung biết Cộng Công chỉ có tối đa 19 cây đào nên nếu bên ngài không có cây đào nào thì Chúc Dung sẽ biết chính xác bên kia có 19 cây, bởi nếu thấp hơn con số đó, tổng số cây của hai bên sẽ không thể là 19 hoặc 20 được. Vậy Chúc Dung sẽ trả lời là có.”
“Nhưng thực tế Chúc Dung lại trả lời là không, vậy chứng tỏ Chúc Dung phải có ít nhất là một cây đào.”
“A ta hiểu rồi” – Lương Thế Vinh hét lên cực kỳ xúc động, khác hẳn với phong cách điềm đạm mà dân chúng thấy nãy giờ.
Thuốc Nổ chỉ tiếp tục giảng giải:
“Lần này lại tới lượt Cộng Công. Vì Cộng Công biết bên Chúc Dung có ít nhất một cây đào, vậy nên, nếu bên ngài có 19 cây thì ngài sẽ biết chắc được là Chúc Dung chỉ có đúng 1 cây và tổng số cây phải bằng 20. Lý do là vì nếu Chúc Dung có nhiều hơn thì tống số cây sẽ vượt quá 20 mất. Như Vậy Cộng Công sẽ trả lời là có. Có điều thực tế đáp án tiếp tục là không, điều này cho thấy Cộng Công có ít hơn 19 cây đào.”
“Cứ suy luận theo một vòng tuần hoàn như vậy, có thể dễ dàng mà đoán ra được Cộng Công có 12 cây đào còn bên Chúc Dung có 7 cây đào, tổng cộng là 19 cây.”
A Hoảng và Chu Hy vẫn chưa hiểu gì. Thuốc Nổ phải lấy cái nhánh cây, vẽ tất cả ra thành sơ đồ ở trên mặt đất, giảng thêm mấy lần nữa thì hai người kia mới hiểu. Chu Hy thầm than:
“Từ khi cha sinh mẹ đẻ ra tới giờ ta chưa thấy được bài toán nào rắc rối phức tạp như vậy. Nước Nam quả là lắm kỳ nhân dị sĩ, đem đại ra một kẻ thanh niên cũng thật là đáng sợ như vậy.”
“Đó là do ông sống ở thời đại này thôi, tư duy toán học còn thô sơ lắm nên mới thấy mấy thứ này ở trên trời” – Thuốc Nổ nghĩ.
A Hoảng thì đang há hốc mồm kinh ngạc:
“Bàn Cổ đại nhân thật là thâm sâu khó lường. Chỉ một bài toán nho nhỏ, thậm chí hai người Chúc Dung và Cộng Công còn chẳng nói với nhau câu nào, vậy mà họ lại hoàn thành lần phối hợp ăn ý chặt chẽ tới như vậy. Nhất định ta phải đem truyền thuyết này vể kể lại cho dân chúng.”
“Trời đất, cái này chỉ là thêm thắt vài yếu tố thần thoại vào cho xuôi tai thôi, làm gì có thật” – Thuốc Nổ lần này đã thật sự cạn lời.
Chỉ thấy Lương Thế Vinh nhìn vào Chu Hy chằm chằm. Hắn nói, giọng bình tĩnh:
“Nước Nam quả lắm kẻ tài giỏi. Sau này ta sẽ không đặt điều nói này nọ về vấn đề đó nữa.”
Ở dưới có tiếng dân làng hoan hô nhiệt liệt. Lương Thế Vinh cũng đúng theo lễ giáo mà nói:
“Vậy thì tiểu quan cũng xin đa tạ sứ thần đại nhân thấu hiểu.”×— QUẢNG CÁO —
Thuốc Nổ trên đường trở về nhà đồ Viễn thì được tôn xưng như người hùng. Nhiều người trước đây còn nghi ngại cậu không phải là người bản xứ thì bây giờ đều đưa ra bộ mặt hớn hở tươi cười. Cậu biết là họ cũng chỉ là dân quê chân chất, có tâm tư gì là lộ hết trên mặt, chứ không phải là kẻ gió chiều nào theo chiều nấy như mấy lão bá hộ, quan sai.
Ai ai cũng ra hỏi thăm cậu một câu cho có gọi là gợi chuyện. Thuốc Nổ biết chắc những thứ như thế này sẽ không thể tránh khỏi nên cậu lợi dụng một cái bụi cây lớn tranh thủ đánh bài chuồn.
Về tới nhà đồ Viễn thì mặt trời đã sắp ngả về hoàng hôn, cậu vội lục đục bước vào thì thấy đồ Viễn đang gõ nhịp cây thước, trên tay đọc bài văn án cậu làm sáng nay. Ông ta lên tiếng:
“Cảo Nhai này, ta thấy cậu cũng là người thông minh, nhưng sao trong mấy chuyện này lại ngây thơ đến như vậy. Tư tưởng trung quân ái quốc, quân – sư - phụ của Nho gia là những thứ đã truyền lại từ ngàn đời, là do những bậc thánh hiền Khổng – Mạnh đúc kết mà ra. Con cháu đời sau chỉ việc chắt lọc những tư tưởng tinh hoa đó mà gây dựng nên đất nước bền vững muôn đời. Sao cậu có thể nói những câu đại nghịch bất đạo như là Tống Triều hủ bại, lạm dụng Nho gia, sính ba tấc lưỡi, mất cả sơn hà. Đây là cái lẽ gì hả?”
Thuốc Nổ vỗ vỗ trán, nói thẳng với ông đồ Viễn:
“Thưa thầy, ta cảm giác thấy ta không hợp với con đường khoa cử. Cái gì mà thi hương, thi hội, thi đình, trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa phiền toái rắc rối hay là vẫn thôi đi. Sắp tới ta có dự định trở về cố hương ở ngoài Bắc, học theo gia phụ gia mẫu mà mở cái quầy thuốc nhỏ cứu đời. Cũng xin từ biệt thầy ở đây.”
Chỉ thấy ông đồ Viễn đập mạnh một cái, bốn chân bàn đều tan nát văng ra bốn phía. Lão nói, giọng mất bình tĩnh:
“Ông trời sinh ra cho cậu cái đầu thông minh là để cậu đứng lên vì quốc gia dân tộc chứ không phải để cho cậu nói cái lời thờ ơ như thế. Bình sinh lão phu dạy học trò, chưa thấy đứa nào sáng dạ như cậu, cũng chưa thấy đứa nào cứng đầu như cậu hết. Nếu hôm nay cậu dám bước ra khỏi đây một bước thì đừng trách lão phu trở mặt thành thù. Cậu lãng phí tài năng chính là bất hiếu. Cậu từ chối thi cử làm quan, chính là bất trung. Cậu bỏ mặc tất cả người quen mà trốn ra Bắc, chính là bất nghĩa. Đồ Viễn ta sao có thể dạy ra một kẻ như thế chứ.”
Thuốc Nổ đã dần không chịu được cái tính cách hủ nho của ông thầy đồ này. Gần một năm qua ở lại thời đại này khiến Thuốc Nổ trở nên ôn hòa không ít chứ nếu lão mà lải nhải trước mặt Lưỡi Liềm Đỏ như thế thì giây sau đã bị bắn cho nát đầu rồi. Chỉ thấy Thuốc Nổ đưa tay ra sau thắt lưng, đang định phát tác thì có học trò vào báo lão đồ Viễn là có quan Trạng Lương Thế Vinh đến chơi.
Đằng xa, người áo trắng khoan thai bước vào, sau lưng là một người lính theo hầu. Có lẽ là Mạc thị vệ trọng thương chưa khỏi nên không có xuất hiện ở nơi đây. Lương Thế Vinh cũng không vội chào Thuốc Nổ mà quỳ xuống dập đầu một cái đủ lễ tiết:
“Cảnh Nghị tham kiến ân sư”
Đồ Viễn chỉ gật đầu một cái không mặn không nhạt đáp:
“Được rồi, đứng lên đi.”
Lương Thế Vinh quay sang nhìn Thuốc Nổ, miệng hỏi:
“Vị đây là?”
“Trần Ngọc, một tên học trò mà vi sư mới thu gần đây. Trần Ngọc, đây là quan Trạng Nguyên danh tiếng đương triều Lương Thế Vinh, ngươi lên chào hỏi một tiếng đi.”
Chợt, lão nhận ra điều gì đó mà nói:
“Hai ngươi quen biết nhau?”
Lương Thế Vinh mỉm cười, kể lại chuyện ván cược ở gần cửa Hàn môn. Thuốc Nổ chưa gì đã thấy không ổn, chỉ nghe lão đồ Viễn cười không ngớt miệng:
“Vi sư đã nói bao nhiêu lần rồi, tài năng như thế thì nên ra giúp nước giúp đời mới thỏa đáng. Đấy ngươi thấy chưa, là vàng thì ắt sẽ sáng. Ngưoi còn chưa làm quan, đã có công lớn như vậy với triều đình. Chẳng lẽ ngươi còn chần chờ gì mà không đi khảo thí.”
Lương Thế Vinh biết được đầu đuôi câu chuyện thì nhẹ nhàng khuyên giải:
“Ân sư minh xét, chuyện này cũng không quá vội vàng, nhất định đồ nhi sẽ bẩm tấu lên Thánh Thượng về trường hợp của Trần công tử đây. Có điều, dưa hái xanh không ngọt, Trần công tử còn trẻ, vẫn còn cần chút thời gian suy nghĩ cho chín chắn.”
Đoạn hai thầy trò hàn huyên tâm sự, Thuốc Nổ cũng không tiện ở đây mà cáo từ sang phòng bên đọc sách. Được một lát thì đồ Viễn đã ra sau nhà nghỉ ngơi, Lương Thế Vinh lại ra trò chuyện với Thuốc Nổ. Hai người ngài ngài tôi tôi khách sáo vài câu, rất nhanh đã chuyển sang chủ đề về toán học.
Lương Thế Vinh vốn là người hiếu học, không phân biệt thân phận sang hèn, người giỏi làm thầy nên rất nhanh đã chiếm được cảm tình của Thuốc Nổ. Chưa được một lúc, Lương Thế Vinh đã phát hiện ra Thuốc Nổ không chỉ nghe thuộc một bài toán ở đâu đó rồi đọc ra lại mà thật sự có kiến thức cực kỳ sâu rộng về toán học.
Hơn nữa, cách Thuốc Nổ nói về toán học có hệ thống rõ ràng, lý luận chặt chẽ, tất cả mọi thứ đều liên hệ với nhau trong một khuôn khổ chung, đúng là cái Lương Thế Vinh đang tìm kiếm.
Lương Trực Học Sĩ vội lấy cuốn Đại Thành Toán Pháp mà mình biên soạn ra cho Thuốc Nổ đánh giá kiểm tra. Thuốc Nổ chỉ ra vài đoạn, chắp nối nó vào trong ý tưởng thống nhất chứ không còn là các bài toán rời rạc được ngẫu nhiên phát hiện quy luật như trước đây.
Cậu đối chiếu với tư duy của thời đại này, bắt đầu giảng giải cho Lương Thế Vinh một số lĩnh vực của toán học bằng ngôn ngữ rõ ràng dễ hiểu. Đầu tiên là từ phương trình đặt ẩn, sau đó là số pi, tam giác đồng dạng, định lý Pytagore, vân vân.
Cậu hoàn toàn không có ý định nói về những thứ phức tạp hơn như tích phân, đạo hàm, ma trận mặc cho thời đại này đã manh nha xuất hiện ý tưởng về những khái niệm này. Với quan niệm của cậu, ứng dụng thực tế của thời đại này chưa cần tới những thứ đó quá nhiều, không nên làm loãng đi việc tiếp thu kiến thức bằng những thứ không cần thiết.
Tối hôm đó, Lương Thế Vinh mời cậu ngủ chung giường, bàn luận chuyện toán học cả đêm, hoàn toàn không có ý mệt mỏi. Thuốc Nổ chỉ ứng phó qua loa, trong lòng không khỏi nhớ tới Pearl Min Lee.
Tính ra thì nàng và Phạm Quang đã tới thời đại này cũng được gần một năm như cậu rồi, chẳng biết họ đã lạc tới nơi đâu. Cậu khá lo cho Pearl Min Lee, nàng là con gái, lại một thân một mình trong cái thời đại trọng nam khinh nữ như vậy, quả thật là không dễ dàng. Chỉ là nàng khá trong sáng nhưng không phải là người ngu ngốc, Thuốc Nổ tạm thời cũng chỉ đành đặt lòng tin vào nàng.
Sáng hôm sau, Thuốc Nổ tỉnh dậy sớm, mới có cuối canh năm đã thức giấc. Chợt thấy có bóng người lấp ló ở bên ngoài cửa sổ. Cậu rón rén bước ra, không làm kinh động tới Lương Thế Vinh. Đứng đợi ở ngoài hành lang là tên lính hầu cận của Lương Thế Vinh hôm qua. Cậu tưởng hắn tới tìm quan Thừa Tuyên sứ của hắn thì đúng lúc thấy hắn bước lên, thấp giọng nói với cậu:
“May quá, cậu tỉnh rồi. Tôi tới báo với cậu một tiếng, hai người họ Mai ở chung với cậu vì không có tiền đóng thuế đinh cho cậu nên mới rạng sáng đang bị quan huyện cho bao vây chỗ ở nghe nói là đang thúc ép kinh lắm, cậu mau mau trở về.”