Editor: Khúc Nam
Beta: Thanh Du
*****
Hôm sau, Lý Uyên để gia quyến và một số thần tử ở lại Thái Nguyên, sai Lưu Văn Tĩnh lên phương bắc liên lạc với Đột Quyết, mang danh đi cầu viện binh nhưng thực chất là thăm dò động tĩnh. Còn ông dẫn ba vạn nhân mã cùng hai con trai lớn và chúng thần dưới trướng, khởi sự từ Thái Nguyên, hành quân về phương nam với khí thế hùng hồn.
Trước khi Lưu Văn Tĩnh lên đường, Lý Kiến Thành đến nhờ y gửi giúp một bức thư. Lưu Văn Tĩnh cung kính tiếp nhận, chưa xem qua đã lập tức nhét vào tay áo, nói: “Thần nhất định sẽ tự tay giao thư này cho Đốt Bật tướng quân.”
Lý Kiến Thành khẽ nhíu mày, hỏi: “Ngài chưa xem qua nó, sao biết thư này không gửi cho Thủy Tất Khả Hãn?”
Lưu Văn Tĩnh đáp: “Thủy Tất Khả Hãn tuổi tác đã cao, Đốt Bật tướng quân đang lúc tráng niên, tay nắm trọng binh, nghe nói tính tình vô cùng phóng khoáng. Nếu là thần, thần cũng sẽ tìm cách kết giao tình với Đốt Bật tướng quân giống như thế tử.”
Tuy không biết rõ toàn bộ sự việc, nhưng chỉ nói mấy câu đã cho thấy y chẳng những hiểu rõ thế cục, mà còn có thể biện lý lẽ rành mạch, quả không phải hạng tầm thường. Âm thầm thán phục xong, Lý Kiến Thành cười nói: “Chẳng trách phụ thân kính trọng tiên sinh như vậy, Kiến Thành đã được thụ giáo.”
Lưu Văn Tĩnh thản nhiên đáp lễ, cũng không ở lại lâu, lập tức cáo từ mà đi.
*****
Đại quân khởi binh vào tháng bảy, một đường hướng thẳng xuống Trường An ở phương nam. Nhờ cái danh nhân đức lưu truyền rộng rãi sau trận Tây Hà nên các thành nhỏ trên đường hành quân phần lớn đều nộp vũ khí xin hàng. Tuy cũng gặp phải sự chống đối nhưng lực lượng rất yếu ớt, không đủ tạo thành uy hiếp.
Đang hành quân thuận lợi suốt quãng đường đầu tiên thì trời bỗng đổ mưa ngâu, một trận mưa kéo dài suốt mấy ngày liền không ngớt. Bởi lo lắng cho lương thảo phía sau nên Lý Uyên hạ lệnh toàn quân di chuyển chậm lại. Nhưng vì một trận mưa ấy, đoàn chở lương thảo chốc lát đã rớt lại phía sau.
Mà chính lúc này, tiền phương lại đưa tới cấp báo: Tây lưu thủ Đại vương của triều Tùy (là Dương Hựu đó) phái Tống Lão Sinh dẫn hai vạn tinh binh đóng ở Hoắc Ấp, đồng thời cử Khuất Đột Thông trấn giữ Hà Đông.
Trong doanh trướng, Lý Uyên đưa chiến báo cho Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân xem, thở dài: “Tống Lão Sinh, Khuất Đột Thông đều là danh tướng của triều Tùy, cử hai kẻ này đóng ở Hoắc Ấp, Hà Đông, vừa nghĩ đã biết sẽ phải trải qua hai trận ác chiến!”
Lý Kiến Thành xem chiến báo xong bèn đến gần tấm địa đồ treo cao, nói: “Hoắc Ấp và Hà Đông tiếp giáp nhau, một nơi gặp nạn, nơi kia có thể lập tức đến cứu. Nếu không cẩn thận có thể rơi vào cảnh đón địch hai phía.”
Lý Thế Dân tiếp lời: “Tập kích là thượng sách để tấn công Hoắc Ấp, đợi đến khi bên Hà Đông nhận được tin tức thì cũng đã quá muộn.”
“Việc này làm sao vi phụ không biết?” Lý Uyên đi đến bên cửa sổ, thở dài: “Nhưng trận mưa này cứ kéo dài không ngớt, đoàn lương thảo lại chưa đuổi kịp, dù muốn tốc chiến tốc thắng nhưng trời không thuận theo thì làm gì được đây?”
“Phụ thân đừng lo lắng,” Lý Kiến Thành tiến lên một bước, nói: “Nếu đã như vậy, chi bằng chúng ta dựng trại đóng quân ở ngoài thành vài hôm, đợi trời tạnh mưa, lương thảo đến, củng cố binh lực rồi tấn công cũng chưa muộn.”
Lý Thế Dân cũng tán thành, Lý Uyên nghe vậy chỉ gật đầu, tỏ ý cứ làm như thế. Nhưng nhìn ra cơn mưa ngoài cửa sổ, liền cảm thấy dường như trước kia đã quá thuận lợi, hiện giờ tất cả khó khăn mới đồng loạt ùa tới.
Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân rời khỏi doanh trướng. Thấy Lý Kiến Thành tìm một con ngựa nhảy lên, Lý Thế Dân vội vã tới gần hỏi: “Đại ca muốn đi đâu vậy?”
Lý Kiến Thành đáp: “Đi ra ngoại thành xem thử.” Lý Thế Dân biết chắc anh muốn đi tra xét địa hình Hoắc Ấp, bèn thuận miệng hỏi: “Đại ca cho Thế Dân đi cùng được không?”
Lý Kiến Thành đã vung roi ngựa, chỉ đáp một câu: “Nếu ngươi muốn đi thì nhanh lên.”
Lý Thế Dân nghe vậy mừng rỡ, lập tức kiếm một con ngựa khác đuổi theo.
Hai người một đường rong ruổi, thoáng chốc đã tới một khoảnh đất rộng gần Hoắc Ấp. Hiện giờ dù mưa đã ngớt đi một chút, nhưng vẫn lất phất không ngừng. Lý Thế Dân sóng ngựa đi bên Lý Kiến Thành, thấy hai vai anh đã ướt nước, trong lòng chỉ muốn thay anh bung một tán dù che mưa.
Mà lúc này Lý Kiến Thành đã dừng ngựa, xoay người nhảy xuống. Anh buộc ngựa vào một gốc cây lớn rồi bước tới gần vách đá dựng đứng, lẳng lặng ngắm nhìn, rất lâu không lên tiếng.
Lý Thế Dân cũng buộc ngựa, bước tới gần anh, xa xa trước mắt hai người chính là thành Hoắc Ấp. Đầu thành cờ bay phất phới, binh mã đi tới đi lui, đủ thấy Tống Lão Sinh chắc chắn đã chuẩn bị rất chu đáo để ứng chiến.
Lý Thế Dân nói: “Đại ca đã nghĩ ra kế sách phá địch chưa?”
Lý Kiến Thành nhìn về phương xa, lặng lẽ lắc đầu, nói: “Thành Hoắc Ấp kiên cố, lại có đại quân đóng giữ. Tuy là tập kích, nhưng nào có chuyện dễ dàng như thế?”
Lý Thế Dân thấy thần sắc anh hơi ảm đạm, liền nói: “Đại quân ta thiếu gì tướng hiền quân giỏi, sao lại không đánh nổi? Để ta tìm phụ thân thỉnh chiến, nhất định sẽ mang đầu Tống Lão Sinh trở về!”
Lý Kiến Thành nghe vậy thì cười nhẹ: “Nếu Tống Lão Sinh chịu ra khỏi thành nghênh chiến thì tốt quá rồi, chỉ e gã ỷ vào thành trì kiên cố, dễ thủ khó công, chỉ thủ vững không rời. Đại quân ta lặn lội đường xa đến đây, dù là lương thảo hay sĩ khí đều đã hao mòn, e rằng sẽ không chịu nổi.”
Lý Thế Dân do dự lên tiếng: “Vậy thì dụ địch xuất chiến.”
“Tống Lão Sinh này không giống với Cao Đức Nho,” Lý Kiến Thành khẽ thở dài, nói: “Việc này… Còn phải bàn bạc cẩn thận.”
Cuộc nói chuyện chấm dứt, giữa hai người chỉ còn sự im lặng.
Lý Thế Dân quay sang, chỉ thấy gương mặt nghiêng của Lý Kiến Thành gần trong gang tấc, dưới màn mưa che phủ bỗng trở nên nhạt nhòa không thực. Sắc mặt anh dù vẫn bình thản như ngày thường, trên hàng mi dài lại mơ hồ đọng lại hạt mưa, tóc cũng ươn ướt, toàn thân bỗng trở nên nhu hòa hơn rất nhiều.
Yên lặng nhìn ngắm hồi lâu, trong đầu Lý Thế Dân tràn ngập muôn vàn hình ảnh, nhất thời hoảng hốt. Trong cơn mông lung, bỗng nhớ ra một câu hỏi vẫn quanh quẩn trong đầu bấy lâu nay, Lý Thế Dân không kìm lòng được mà mở lời: “Đại ca có thể cho Thế Dân biết ngày ấy huynh té xỉu… là vì sao không?”
Lý Kiến Thành vốn đang nhìn đăm đăm vào một chỗ, cõi lòng ngổn ngang, vẫn chưa nhận ra ánh mắt của Lý Thế Dân. Nghe hắn nói vậy, anh quay đầu lại, vừa hay đối diện với đôi mắt đối phương, một đôi mắt mang theo chờ mong tha thiết, một đôi mắt trong veo không hề che giấu điều gì.
Anh hơi ngẩn người, dường như một lúc lâu sau mới hiểu câu hỏi của hắn. Lý Kiến Thành cúi đầu cười nhạt, vươn tay vỗ nhẹ lên vai Lý Thế Dân, trả lời: “Chỉ là một cơn đau tim thôi, cũng không đáng ngại.”
Dù cơn đau ấy cũng nhờ phước ngươi ban cho.
Lý Thế Dân khẽ nghiêng đầu nhìn bàn tay đang đặt trên vai mình, những đốt ngón tay thon dài mảnh khảnh, làn da trắng muốt khiến hắn vô thức duỗi tay nắm lấy. Mu bàn tay đó âm ẩm, còn mang theo hơi lạnh, không hiểu vì sao cảm giác này lại khiến lòng hắn nháy mắt đã tan chảy.
“Đại ca mắc căn bệnh này từ khi nào, vì sao không mời thầy thuốc đến chữa trị?” Bàn tay Lý Thế Dân hơi siết chặt, cúi đầu không nhìn anh, giọng nói trầm hẳn xuống.
Lý Kiến Thành để mặc cho Lý Thế Dân nắm tay mình, nhìn lướt qua vai hắn về phía thành Hoắc Ấp, bình thản nói: “Khi ở Hà Đông đã mời đại phu khám thử, họ nói chỉ có thể dùng thuốc điều trị lâu dài, không thể chữa tận gốc, cũng chẳng biết là bệnh gì.” Dừng một lát rồi cười nói, “Vả lại đây chỉ là bệnh vặt, phát bệnh thì đau một lúc rồi hết, không có gì đáng ngại cả.”
Thật ra so với nỗi đau khi trúng một tên từ người thân thiết nhất, chút đau đớn vặt vãnh ấy đã thấm vào đâu?
Lý Kiến Thành từ từ nhắm mắt tự giễu thầm, nhưng dáng vẻ ấy rơi vào mắt Lý Thế Dân lại trở thành vô cùng tịch mịch. Tay hắn hơi vận sức nắm chặt tay Lý Kiến Thành, trong thoáng chốc, hắn chỉ hận không thể kéo người kia vào lòng ôm thật chặt.
Dù cho đó chính là đại ca của mình.
Đúng lúc này, một tiểu giáo cưỡi ngựa phi nước đại từ xa chạy tới. Tiếng vó ngựa lộc cộc xáo trộn suy nghĩ của hai người, không khỏi nhìn về phía phát ra âm thanh.
Tiểu giáo nọ vội vàng tới gần hai người, gần như ngã nhào xuống đất rồi mới bò dậy. Gã hốt hoảng quỳ rạp xuống đất, nói: “Thế tử điện hạ, nhị điện hạ, quốc công sai tiểu nhân tới thỉnh hai vị lập tức trở về, có việc quan trọng cần thương nghị.”
Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân thấy vẻ mặt hoảng hốt của gã, trong lòng biết nhất định đã xảy ra chuyện lớn, cũng không hỏi nhiều mà lập tức xoay người lên ngựa, vội vàng phóng theo tiểu giáo nọ trở về.
Trở lại quân doanh, hai người còn chưa kịp thay quần áo đã vội vàng vào trướng Lý Uyên. Ông đang đứng giữa doanh trướng, quay lưng ra cửa, im lặng quan sát tấm địa đồ treo cao.
Hai người nhìn nhau, rồi Lý Kiến Thành chắp tay nói: “Không biết phụ thân gọi con và Thế Dân trở về là có chuyện gì cần phân phó?”
Lý Uyên không quay lại, nghe vậy thở dài một tiếng, nói: “Lưu Văn Tĩnh gửi cấp báo nói mấy ngày nay Khả Hãn Đột Quyết qua lại thân thiết với Lưu Vũ Chu, nghi là có ý muốn đem quân đánh Thái Nguyên.”
Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân nghe vậy đều giật mình kinh ngạc.
Lưu Vũ Chu kia nguyên là giáo úy Ung Dương phủ của triều Tùy, năm đó tháng hai khởi sự, đến tháng ba đã xưng đế, chiếm cứ Mã Ấp, từ đó đến giờ vẫn luôn nương tựa Đột Quyết, qua lại thân thiết với chúng. Hiện giờ đại quân của Lý Uyên xuôi nam, nếu hắn bắt tay với Đột Quyết tấn công Thái Nguyên thì hậu quả đã rõ mười mươi.
Lý Kiến Thành suy nghĩ chốc lát rồi lên tiếng: “Phụ thân, tin tức này đã xác nhận là thật chưa ạ?”
Lúc này Lý Uyên mới quay lại, nói: “Trong thư Lưu Văn Tĩnh chỉ nói y đã dốc toàn lực để giao thiệp với Đột Quyết, nhưng dù tin này là thật hay giả thì chúng ta cũng không thể khinh thường. Trước khi chiếm được Quan Trung, Thái Nguyên chính là hậu phương không thể lay chuyển; nếu đánh mất Thái Nguyên, đại quân ta sẽ không còn đường lui. Huống chi thân nhân của nhiều binh tướng còn ở lại đó, Thái Nguyên xảy ra chuyện, quân tâm chắc chắn sẽ dao động.”
Lý Kiến Thành nghe giọng ông cũng mơ hồ hiểu ra điều gì, liền tiếp lời: “Phải chăng phụ thân có ý muốn dỡ trại quay về cứu Thái Nguyên?” Thực ra trong lòng anh hiểu rất rõ, dựa vào hoàn cảnh hiện giờ, đại quân chẳng qua chỉ có hai con đường để đi: Tiếp tục tiến xuống phương nam đánh hạ Quan Trung, hoặc lùi về cứu viện Thái Nguyên.
Lý Uyên nói: “Vừa rồi ta đã triệu đám Bùi Tịch đến bàn bạc, bọn họ đa phần đều muốn quay về cứu Thái Nguyên.” Lại thở dài một hơi: “Vi phụ…… cũng vô cùng khó xử.”
Lời vừa mới dứt đã thấy Lý Thế Dân tiến lên một bước, cướp lời: “Phụ thân! Quân ta đã hạ liên tiếp vài thành, nếu chúng ta quay về bây giờ thì bao nhiêu công sức khó nhọc coi như đổ xuống sông xuống biển, xin phụ thân suy xét!”
Lý Uyên trầm mặc một lát mới chuyển sang con trưởng của mình,“Kiến Thành, ý con thế nào?”
Lý Kiến Thành đáp: “Ý của con cũng giống Thế Dân.”
Lý Uyên hơi hơi nhíu mày, thái độ của Lý Kiến Thành hiển nhiên có phần vượt ngoài dự liệu của ông. Nhưng lời của thế tử dù sao cũng hết sức quan trọng, vì thế ông dừng lại một chút rồi mới mở miệng: “Kiến Thành, con hãy nói ra lý do của mình đi.”
“Dạ.” Lý Kiến Thành tiến lên một bước, nói,“Lưu Vũ Chu tuy cùng một giuộc với Đột Quyết, nhưng dù sao cũng không thể đồng tâm hiệp lực, trong khi qua lại tất sẽ có chỗ nghi kỵ lẫn nhau. Đột Quyết chẳng qua chỉ muốn cướp lương tiền, Thái Nguyên tuy trù phú nhưng đường xá lại quá xa xôi. So ra thì Mã Ấp mà Lưu Vũ Chu chiếm đóng cũng giàu có hơn những nơi khác, Đột Quyết có thật sẽ bỏ gần lấy xa, đánh đến tận Thái Nguyên? Đây là điểm thứ nhất.”
Lý Uyên thấy anh cố ý ngừng lại, bèn giục: “Kiến Thành cứ nói tiếp đi.”
“Thứ hai, tạm thời không nói việc này còn chưa rõ thực hư, nhưng nếu chúng ta nửa đường quay về, xét trong quân e là sẽ dấy lên bạo loạn; xét bên ngoài, chỉ tổ khiến cho kẻ khác đục nước béo cò.” Giọng Lý Kiến Thành trở nên khẩn thiết,“Như thế trong ngoài đều đón địch, cho dù ban đầu Đột Quyết vốn không có ý muốn đánh Thái Nguyên thì lúc này chắc chắn sẽ thừa nước đục thả câu; mà hai người Tống Lão Sinh, Khuất Đột Thông đóng ở phía nam há lại ngồi yên, bỏ qua cơ hội này? Như thế chúng ta chắc chắn sẽ đón địch hai mặt!”
Nghe đến đây, Lý Uyên hơi hơi nhíu mày, rõ ràng đang cân nhắc. Lý Kiến Thành nói xong một tràng thì khẽ đảo mắt, vừa hay lại bắt gặp ánh mắt của Lý Thế Dân bên kia. Nét mặt Lý Thế Dân trông rất gấp gáp, tựa như có thiên ngôn vạn ngữ muốn nói ra. Lý Kiến Thành chứng kiến tất cả, cuối cùng gật đầu ra hiệu với hắn.
Lý Thế Dân lập tức chắp tay nói: “Phụ thân, đại ca nói rất đúng. Huống chi đại quân ta đang lúc sĩ khí cực thịnh, gươm giáp đầy đủ, mà Tống Lão Sinh kia lại là kẻ nóng nảy khinh xuất, không đáng lo ngại. Giờ ta chỉ cần chờ thêm mấy ngày nữa cho lương thảo đuổi kịp, mưa tạnh là tiến quân. Thế Dân xin lấy mạng mình ra cam đoan, quân ta tất phá Tống Lão Sinh!” Dứt lời liền quỳ xuống.
Hắn nói bằng giọng điệu hết sức hùng hồn, Lý Uyên nghe vậy đã hơi động dung, chỉ khẽ gật đầu.
Lý Kiến Thành thừa biết trong lòng ông chung quy vẫn còn vài phần lo lắng, liền liếc nhìn Lý Thế Dân, kế đó tiến lên nói: “Phụ thân, con thường nghe ‘Binh mã chưa động, lương thảo đã đi rồi’, giờ này lương thảo còn chưa tới, phụ thân lo lắng trong lòng cũng là hiển nhiên.” Dừng một chốc, “Kiến Thành có một kế, mong được chia sẻ nỗi lo này với phụ thân.”
Lý Uyên bèn hỏi: “Kiến Thành có kế gì?”
(Hai cha con nhà này thích vờn vờn nhau nhỉ, không như em Dân có bao nhiêu là dốc tuột ra bằng sạch =)))
Lý Kiến Thành tiếp: “Gần đây đại khái có hơn mười thôn xóm, phụ thân có thể phái người mượn lương của bách tính xung quanh. Từ giờ đến khi lương thảo đuổi kịp, tất có thể đáp ứng nhu cầu tạm thời. Kiến Thành bất tài, xin đứng ra đảm đương việc này!” Lời vừa dứt cũng lập tức quỳ xuống.
Lý Uyên nhìn hai đứa con đang quỳ dưới đất, vẫn lặng thinh không nói.
Kiến Thành chắp tay nói: “Việc quân như lửa, tiến hay lui xin phụ thân mau quyết định!”
Lý Uyên im lặng hồi lâu, cuối cùng thở ra một hơi rất dài, nói: “Có lẽ vi phụ già rồi, từ lâu đã mất đi khí phách liều lĩnh táo bạo của lớp trẻ các con. Lời hai con nói ra từng câu từng chữ đều có lý, vi phụ sẽ nghe lời các con…… đánh cược một lần!”
Hai người quỳ dưới đất nghe vậy tức khắc tỏ vẻ vui mừng, nói: “Phụ thân anh minh!”
Lúc này sắc mặt của Lý Uyên mới dịu đi vài phần, ngữ điệu có phần bất đắc dĩ: “Hai huynh đệ các con kẻ xướng người họa, chẳng mấy chốc đã thuyết phục được vi phụ.” Dừng một chút, bước đến nâng hai người dậy, vỗ vai cả hai mà nói, “Trận chiến này phải nhờ cậy vào hai con rồi!”
Lý Thế Dân âm thầm thở phào một hơi, nghe ông nói vậy thì ngây người, đảo mắt nhìn sang Lý Kiến Thành. Anh vẫn chưa nhìn lại hắn, đôi mắt khép hờ toát ra vẻ bình thản, mà bên môi vẫn còn sót lại một tia vui sướng.
Lý Thế Dân thoáng giật mình. Vừa rồi hai người còn chưa kịp trao đổi trước đã vội tới đây, dưới tình thế cấp bách bỗng không mưu mà hợp, mỗi người một câu, cuối cùng ngăn cản được ý muốn lui binh của Lý Uyên.
Như thế…… Có tính là một loại ăn ý hay không?
Một loại ăn ý chỉ tồn tại giữa mình và đại ca.
———————————————–
Tiếp tục chương trình lần theo dấu chân lịch sử =)) Đoạn trích này lấy từ cuốn 2 của “Đại Đường sáng nghiệp khởi cư chú” tương ứng với sự kiện Kiến Thành và Thế Dân can Lý Uyên rút quân trong chương 5 này:
刘文静之使蕃也来迟, 而突厥兵马未至, 时有流言者云: “突厥欲与武周南 人, 乘虚掩袭太原.” 帝集文武官人及大郎, 二郎等, 而谓之曰: “以天赞我而 言, 应无此势. 以人事见机而发, 无有不为. 此行遣吾当突厥, 武周之地, 何有 不来之理. 诸公意谓何”议者以老生突厥相去不遥, 李密谲诳, 奸谋难测. 突厥 见利则行, 武周事胡者也. 太原一都之会, 义兵家属在焉. 愚夫所虑, 伏听教旨. 帝顾谓大郎, 二郎等曰: “尔辈如何”对曰: “武周位极而志满, 突厥少信而贪 利, 外虽相附, 内实相猜. 突厥必欲远离太原, 宁肯近亡马邑, 武周悉其此势, 必未同谋. 又朝廷既闻唐国举兵, 忧虞不暇, 京都留守, 特畏义旗, 所以骁将精 兵, 鳞次在近. 今若却还, 诸军不知其故, 更相恐动, 必有变生. 营之内外皆为 劲敌. 于是突厥, 武周不谋同至, 老生, 屈突追奔竞来, 进阙面南, 退穷自北. 还无所入, 往无所之. 畏溺先沉, 近于斯矣. 且今来禾菽被野, 人马无忧, 坐足 有粮, 行即得众. 李密恋于仓米, 未遑远略. 老生轻躁, 破之不疑. 定业取威, 在兹一决. 诸人保家爱命, 所谓言之者也. 儿等捐躯力战, 可谓行之者也. 耕织 自有其人, 请无他问. 雨罢进军, 若不杀老生而取霍邑, 儿等敢以死谢.” 帝喜 曰: “尔谋得之, 吾其决矣. 三占 従 二, 何籍舆言. 懦夫之徒, 几败乃公事耳.” 丙子, 太原运粮人等至