Đậu hoàng hậu biết hoàng thượng vô cùng sủng ái ả, cũng không dám xử lý quá tàn nhẫn đối với ả, cơn giận trong lòng bà cũng đã hết, liền thản nhiên nói:
- Hôm nay chỉ là cảnh cáo, nếu ngươi dám tái phạm, lần sau ta sẽ lấy cái mạng nhỏ bé của nhà ngươi.
Trương Tiệp Dư ôm lệ dập đầu:
- Tiện thiếp tạ ơn hoàng hậu đã dạy bảo.
- Đi đi! Đừng để ta lại gặp lại ngươi.
Trương Tiệp Dư hành lễ lui ra, Đậu hoàng hậu nghĩ ngợi một lúc lại dặn dò hai bên:
- Đem chuyện hôm nay truyền khắp cung, ai dám tái phạm, bản cung sẽ trừng trị nghiêm khắc!
Trương Tiệp Dư về đến tẩm cung của mình liền gục đầu vào giường, khóc lớn, mấy cung nữ tâm phúc và thái giám nhiều lần khuyên ả, hoàng hậu chỉ đố kỵ vì ả được sủng ái nên mới nổi giận như vậy, càng chứng tỏ ả rất được thánh thượng yêu chuộng, ả ngẫm nghĩ cũng không sai nên mới dần dần ngưng khóc.
ả ngồi trước bàn trang điểm tự soi gương, thấy mình vô cùng tệ hại, xấu hổ không nói nên lời, trong lòng hận đến chảy máu, nghiến răng nghiến lợi thấp giọng nói:
- Sẽ có một ngày, ta sẽ giết lão tiện nhân này!
Đứng bên cạnh là một lão thái giám, tên Trương Hiệu Trung, là đồng hương với Trương Tiệp Dư, thậm chí còn là họ hàng xa, lão là tâm phúc của Trương Tiệp Dư, rất có chút đầu óc suy nghĩ.
Lão liền hạ giọng khuyên bảo:
- Nương nương không cần thiết phải phiền não, hoàng hậu tuổi tác đã cao, sức khỏe lại không được tốt, cũng không qua được mấy năm nữa, lão nô muốn khuyên nương nương nên nhìn xa một chút, tìm cho mình chỗ dựa sau này.
Trương Tiệp Dư trầm ngâm suy nghĩ rồi hỏi:
- Ông nói chỗ dựa là như thế nào?
Trương Hiệu Trung thở dài:
- Thực ra thánh thượng háo sắc vô độ, phóng túng bản thân cũng không thể trường thọ được, lão nô khuyên nương nương nên suy nghĩ lâu dài, vạn nhất thánh thượng sau trăm tuổi, nương nương nên làm thế nào?
- Vậy ngươi nói ta nên làm thế nào? Chỗ dựa là ai được chứ?
Trương Diệp Tư không hiểu hỏi.
Trương Hiệu Trung nhìn hai bên, thấy không có người liền nói nhỏ:
- Hiện nay nương nương được thánh thương sủng ái, có thể nắm giữ trái tim của hoàng thượng, đó chính là tài năng của nương nương, nếu nương nương không ngại hãy dùng tài năng này để kết giao với thái tử, nói lời hay ý đẹp thay cho thái tử, sau này thái tử đăng cơ, cũng sẽ cảm ơn mà báo đáp, lo cho nương nương về sau.
Trương Diệp Tư giật mình:
- Ta cũng là vì cái này nên mới bị phạt, ngươi còn muốn ta kết giao với thái tử, không phải là muốn hại chết ta đấy chứ?
Trương Hiệu Trung nở nụ cười:
- Nương nương hiểu nhầm rồi, lão nô không phải nói bản thân nương nương qua lại với thái tử, càng không phải nương nương và thái tử liếc mắt đưa tình, mà là lão nô nói kết giao lợi ích, nương nương không ngại để phụ thân qua lại với thái tử, có việc gì, có thể thông qua phụ huynh truyền đạt tin tức.
Trương Tiệp Dư trầm tư suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng gật đầu.
Phường Tuyên Dương Trường An, có một căn nhà lớn rộng gần tám mươi mẫu. Nơi này chính là phủ Độc Cô nổi tiếng Trường An, là phủ đệ của Độc Cô Tín công thần khai quốc Bắc Chu năm đó.
Sau đó do trưởng tử Độc Cô La kế thừa, Độc Cô La bị chết vì dính líu đến vụ án của Hạ Nhược Bật, trước lúc chết đem phủ đệ này truyền lại cho chủ nhân mới là Độc Cô Chấn, chứ không truyền cho con trai là Độc Cô Lương. Như vậy, Độc Cô phủ trở thành phủ đệ của gia chủ của gia tộc Độc Cô.
Buổi tối, thành Trường An bị bao phủ bởi màn mưa phùn dày đặc, người của Độc Cô phủ đang bận rộn thả đèn bên bờ sông nhỏ. Hôm nay là 13 tháng 7 rồi, chỉ còn 2 ngày nữa là đến tết Trung Nguyên, cho dù hoàng đế Lý Uyên yêu cầu phải tiết kiệm, không được xa hoa, nhưng phong tục cần thiết vẫn phải được duy trì.
Trong màn mưa mù mịt, một chiếc xe ngựa chầm chậm dừng trước cửa Độc Cô gia, gã quản gia vội vã bung dù chạy xuống bậc thang, Độc Cô Lương bước ra khỏi xe ngựa.
Độc Cô Lương là trưởng tử của Độc Cô La, do tuổi tác đã cao nên không làm quan trong triều đình mà được phong làm Thái tử Thiếu bảo, tập cựu tước Triệu quốc công, địa vị vô cùng tôn quý.
Độc Cô Lương tuy rằng không làm quan nhưng lại có rất nhiều con em Độc Cô gia khác đảm nhận chức quan cao trong Đường triều.
Tỷ như huynh đệ lão Độc Cô Hoành đảm nhận chức Hữu Vệ đại tướng quân, cháu trai Độc Cô Khí làm Thái thú quận Tư Dương, tộc đệ Độc Cô Hoài Ân là Công bộ thượng thư, thúc phụ của lão Độc Cô Chấn làm Nội sử lệnh…, quan văn quan võ đều có cả, địa vị gia tộc vô cùng tôn quý trong Đường triều.
Độc Cô Lương nhìn khắp lượt các gia nhân đang bận rộn bên sông, liền lạnh lùng hỏi:
- Chủ nhân ngươi có ở phủ không?
- Có ạ, mời nhị lão gia đi theo lão.
Quản gia cùng Độc Cô Lương nhanh nhanh chóng chóng đi vào trong phủ.
Trong thư phòng, chủ nhân Độc Cô thị Độc Cô Chấn đang ngồi hạ bút viết một bức thư. Độc Cô Chấn năm nay cũng đã hơn 60 tuổi, tóc bạc nhưng khí sắc tốt, ánh mắc quắc thước, là một trong ngũ tướng Đại Đường, đảm nhiệm Nội Sử Lệnh.
Gia tộc Độc Cô và Đậu thị đều được gọi là Đại Đường đệ nhị gia tộc, chỉ đứng sau hoàng tộc Lý thị, hoàn toàn áp đảo các quý tộc Quan Lũng khác.
Đạt được địa vị cao như vậy, hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, năm Đại Nghiệp cuối cùng, gia tộc Độc Cô liên tục chuyển tiền và lương thảo từ các nơi của triều Tùy đến Quan Trung, nên gia tộc Độc Cô được mệnh danh là thủ phủ Đại Tùy, có khả năng hiệu triệu cực lớn ở hai vùng đất Quan Lũng và Ba Thục.
Sai khi Lý Uyên vào Quan Trung, gia tộc Độc Cô đầu tiên đem số tiền và lương thảo cực lớn trợ giúp cho quân Đường, sáu nghìn gia đinh ở các trang viên cũng giao cho quân Đường.
Lập tức lão theo Lý Hiếu Cung theo hướng nam đến Ba Thục, khuyên các quận Ba Thục đầu hàng Đường triều, giúp Đường triều không phải tốn binh đao mà cũng chiếm lĩnh được Ba Thục, lập nên công lớn.
Lý Đường để đền đáp ân nghĩa nên đã hậu phong gia tộc Độc Cô, cũng là có tình có lý.
Nhưng cùng với việc quân Đường bị thảm bại dưới quân Tùy, gần hai trăm nghìn đại quân bị tiêu diệt, sáu nghìn gia đinh của lão cũng chết thảm hơn một nửa. Điều này khiến cho niềm tin của Độc Cô Chấn với Đường triều cũng bắt đầu bị dao động.
Điều này cũng giống như một nhà đầu tư, khi anh ta đầu tư liên tục bị lỗ thì Đại Đường rất khó đem lại lợi nhuận hẫu hĩnh cho anh ta. Thậm chí còn bị trượt xuống bên bờ vực phá sản, đương nhiên là lão không vui rồi.
Hai ngày nay có một chuyện khác khiến lão đau đầu là tin tức mà lão nghe được vào sáng sớm nay. Cháu trai Độc Cô Hoài Ân bị quân Tùy bắt giữ, điều này khiến cho lão vô cùng tức giận.
Độc Cô Hoài Ân đảm nhậm Công bộ thượng thư, là người kế thừa của Độc Cô gia mà lại bị quân Tùy bắt làm tù binh, nghe nói còn bị trúng tên, cả một ngày trời, Độc Cô Chấn bị chuyện này làm cho âu sầu thiểu não.
Lúc này, bên ngoài có tiếng bẩm báo của quản gia:
- Chủ nhân, nhị lão gia đã tới.
Độc Cô Chấn hạ bút, Độc Cô Lương đến rồi, cũng biết y sẽ đến liền nói:
- Mời vào.
Cửa mở, Độc Cô Lương bước vào trong, mặc dù y lớn hơn Độc Cô Chấn hai tuổi nhưng y vẫn là cháu trai của lão, y liền đến hành lễ:
- Tham kiến gia chủ!
Độc Cô Lương là trưởng tôn, có địa vị cao quý trong gia tộc Độc Cô, vì thế Độc Cô Chấn cũng đặc biệt tôn trọng y, trước mặt y cũng không câu nệ trưởng bối, hai người tuy là chú cháu nhưng thực chất tình như huynh đệ.
Huấn Lương đến thật đúng lúc, ta vốn cũng định cho người đến mời cháu, ngồi xuống đi.
Độc Cô Lương ngồi xuống, một hầu nữ bưng trà đến, y uống một ngụm trà nóng, vẻ lo lắng nói:
- Cháu chiều nay mới biết tin, Hoài Ân bị quân Tùy bắt giữ, phải làm sao đây? Lý Hiếu Cung lại chạy mất một mình.
Độc Cô Chấn cười lạnh lùng:
- Không chỉ có Lý Hiếu Cung chạy mất mà đến mấy tên giúp việc của y cũng chạy theo, nhưng đường đường Nguyên soái Trưởng sứ, Công bộ thượng thư triều đình lại bị bắt làm tù binh, cháu không thấy chỗ này có điều gì không bình thường sao?
Độc Cô Lương kinh ngạc:
- Ý của thúc là Lý Hiếu Cung cố ý để Hoài Ân bị Quân Tùy bắt sao?
- Ta không dám nói Lý Hiếu Cung cố ý nhưng y không tận tâm bảo vệ Hoài Ân, điều này là quá rõ, ta nghĩ nếu Đậu Tấn là trưởng sứ, Lý Hiếu Cung bất luận thế nào cũng sẽ không để y bị bắt.
Độc Cô Chấn nói với vẻ vô cùng bất mãn, ban đầu thái tử chủ trương để Hoài Ân đi Kinh Tương giữ chức Đông Nam đạo Hành Đài Thượng thư lệnh chính là một quyết định sai lầm, quả nhiên đây là muốn phân quyền của Lý Hiếu Cung.
Nhưng Lý Thế Dân và Lý Hiếu Cung đâu có để quyền lực Kinh Tương bị chia dễ dàng như vậy, không phải thời cơ là đây hay sao? Lý Hiếu Cung lợi dụng thủ đoạn chiến tranh dễ dàng loại bỏ Hoài Ân, Độc Cô Chấn vừa hận Lý Hiếu Cung thủ đoạn thâm độc vừa bất mãn với Lý Kiến Thành suy nghĩ không thấu đáo.
Lão lại nói:
- Hôm nay ta đi gặp thái tử, ta nói rõ với thái tử, chuyện này nếu như không làm cho ra lẽ thì sau này Độc Cô gia sẽ không cống nộp cho triều đình một cắc, một đấu nào cả.
- Nhưng có tác dụng không?
- Nhất định có, phụ hoàng y còn muốn chiêu mộ binh mã, còn cần đồng để đúc tiền, những cái này y đều phải cầu xin Độc Cô gia ta, y nhất định sẽ nghĩ cách để cứu Hoài Ân.
Độc Cô Lương trầm tư một lúc rồi nói:
- Thúc ép như vậy, liệu có hơi quá với họ không?
Độc Cô Lương lắc lắc đầu:
- Thái tử và Lý Uyên ắt có tính toán trong đầu, ta không chỉ bất mãn với chuyện này mà thực tế, họ ngoài việc tạo ra những tên mềm yếu như Lương Sư Đô, Lý Quỹ và Tiên Tiển, thì còn có thể đối phó ai nữa. Họ đã bại dưới tay Dương Nguyên Khánh mấy lần rồi?
Độc Cô Lương cũng lo lắng:
- Thực ra không chỉ có thúc bất mãn mà cháu tiếp xúc với không ít quý tộc Quan Lũng, họ đều không hài lòng đối với việc quân Đường thảm bại bởi quân Tùy, nghe nói đến Đậu gia cũng có ý kiến.
Mắt Độc Cô Chấn lơ đễnh để hiện tia hối hận, lão không kìm được tiếng thở dài:
- Ta ủng hộ họ là để họ thống nhất thiên hạ. nhưng họ đến Quan Trung cũng không đi ra được, làm sao mà không khiến ta khỏi thất vọng, sớm biết này ta đã ủng hộ Dương Nguyên Khánh, đúng là sai một ly đi một dặm!
- Nhưng Dương Nguyên Khánh là kẻ thù của quý tộc Quan Lũng, ban đầu hắn đánh bại Hạ Nhược Bật. Áp đảo Trương gia và Nguyên gia, thúc quên rồi sao?
Độc Cô Chấn cười, chầm chậm nói, dường như muốn Độc Cô Lương khắc cốt lời y nói.
- Điều này cháu không hiểu rồi, không ở trong tình thế đó thì sẽ không hiểu. Lúc đó, hắn chẳng qua chỉ là thần tử, làm những việc đó là tuân theo thánh ý của Dương Quảng. Nhưng bây giờ hắn đã làm chủ. Hắn muốn giành thiên hạ, cuối cùng cũng vẫn cần phải thỏa hiệp với quý tộc Quan Lũng.
Độc Cô Chấn thấy Độc Cô Lương nghĩ ngợi, lại tiếp tục nói:
- Một người không biết thỏa hiệp thì mãi mãi sẽ không thể thành đại sự, Dương Nguyên Khánh lại không phải là người như vậy, lúc đầu ở Lạc Dương áp giá gạo, ta đã biết hắn là một người biết thỏa hiệp.
Độc Cô Lương đã hiểu chút ý của chú:
- Thúc muốn nói chúng ta âm thầm đi lại với Dương Nguyên Khánh?
Độc Cô Chấn mỉm cười đắc ý:
- Trên thực tế ta đã qua lại rồi. Lúc ta ở Phong Châu, ta đã tiếp xúc với hắn rồi, cháu quên rồi sao?
Độc Cô Lương giật mình, y đúng là đã quên người đó rồi.
Huyện Thọ Quang quận Bắc Hải là một huyện nhỏ ở phía bắc của Bắc Hải, dọc theo hướng bắc là một mảnh rừng rậm, qua rừng rậm lại là bãi cát mười mấy dặm, cứ tiếp hướng bắc là đến biển rộng mênh mông vô bờ.
Tống Kim Cương dẫn hơn hai mươi tàn binh tháo chạy. Y không dám vào huyện thành, chạy thẳng vào rừng, hướng bãi cát.
Trận chiến của Đậu Kiến Đức và Tống Kim Cương kéo dài gần nửa tháng, mặc dù Đậu Kiến Đức với ba mươi ngàn quân chiến đấu với mười hai ngàn quân của Tống Kim Cương, binh lực chiếm ưu thế tuyệt đối, nhưng Tống Kim Cương lợi dụng tường thành cao lớn, động viên quân dân toàn thành phòng thủ nghiêm ngặt, khiến Đậu Kiến Thành tổn thất nặng nề.
Cuối cùng vì dân chúng không kham nổi áp bức, mở thành để Đậu Kiến Đức tiến vào, mới khiến cho đội quân của Tống Kim Cương thảm bại, Tống Kim Cương dẫn hơn trăm thân binh đoạt môn tháo chạy.
Qua huyện Thọ Quan là đến thẳng rừng rậm, Tông Kim Cương cuối cùng cũng đến được bãi cát, mãi cho đến lúc này, y mới thở phào nhẹ nhõm, đến được bãi cát thì phải xem liệu y có thể tìm được thuyền ra biển, rời khỏi Bắc Hải hay không.
- Tướng quân, chúng ta đi đâu đây?
Một tên cận binh hỏi.
Điều này Tống Kim Cương cũng không biết, y còn có thể đi đâu được? Thực ra 20 hôm trước, Dương Nguyên Khánh có phái người đến tìm y với hy vọng y có thể đầu hàng Đại Tùy.
Khi đó, y cho rằng điều kiện mà Dương Nguyên Khánh đưa ra quá thấp, chỉ cấp cho y vị trí hữu danh vô thực của một công huyện và chức vị đại tướng quân nhàn rỗi, chẳng có tý thực quyền nào, vì thế y đã từ chối.
Thế nhưng bây giờ y muốn đồng ý thì chỉ e Dương Nguyên Khánh cũng sẽ không dung nạp, y đã mất quận Bắc Hải, mất đội quân, hai bàn tay trắng, y làm gì còn có đủ tư cách để nhận huyện công và chức vị đại tướng quân!
Y và Mạnh Hải Công là bạn cố hữu, có lẽ gã có thể đi thuyền xuống phía nam đến Hội Kê để nương nhờ Mạnh Hải Công.
Tống Kim Cương thở dài:
- Đi tìm thuyền trước hãy nói.
Lúc này họ vừa đói vừa mệt, lại tiếp tục đi về phía bắc, khoảng 10 dặm, sắp đến biển, trước mặt bỗng thấy một ngôi nhà, trên mái tỏa khói nghi ngút, có người!
Cả đám người vừa kinh ngạc vừa vui mừng, thúc ngựa chạy đến, đó là nhà của một ngư dân, trong nhà gồm một đôi vợ chồng trung niên với hai đứa con, một trai một gái, người chồng mới cùng con trai đánh cá trở về, gia đình đoàn tụ, đang hưởng thụ niềm vui vô bờ.
Bỗng nhiên một đám binh sĩ như thổ phỉ xông vào, người chồng giận dữ, cầm ngư khí liều mạng liền bị binh sĩ một đao chém chết, người vợ cùng cô con gái sợ trốn trong phòng bị bọn binh sĩ cười dâm ô, khóa trái cửa.
- Mẹ kiếp, mau tìm lương thực, ăn no rồi chuyện gái gú tính sau.
Tống Kim Cương bụng đói, giục thuộc hạ đi tìm cái gì ăn, bọn binh sĩ lùng sục khắp phòng, chỉ tìm được ít gạo, nhưng sân sau lại có không ít cá biển, bọn binh lính được một bữa no nê hải vị.
Màn đêm buông xuống, Tống Kim Cương dâm ý nổi lên, một chân đá văng cửa phòng.
Trời càng lúc càng tối, tội ác bóng đêm cũng đã kết thúc, đám binh sĩ một ngày mệt mỏi đều lăn ra ngủ say như chết.
Đúng lúc này, Tống Kim Cương bị một tiếng động giật mình tỉnh dậy, chỉ cảm thấy bên ngoài một màu rực lửa. Y thất kinh, bật dậy, lao đến cửa sổ, toát mồ hôi hột, chỉ thấy bên ngoài bị mấy trăm ngư dân vây kín, người người tay lăm le ngư khí và đuốc, trong mắt hừng hực phẫn nộ.
Trước mặt là một thiếu niên 16, 17 tuổi, giống người ngư dân bị giết như tạc, Tống Kim Cương lùi lại hai bước.
Bỗng nhiên, y rống lên:
- Dậy mau, tất cả dậy hết cho ta!
Cả phòng náo loạn, các ngư dân không đốt nhà là vì họ sợ làm phụ nữ trong nhà bị thương, nhưng hai người họ đã chết, họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra thôi.
- Ra ngoài giết, đoạt lại ngựa.
Bọn binh lính rút đao đi ra, Tống Kim Cương cũng xông ra, chỉ có đoạt lại ngựa mới có khả năng sống sót.
Một tiếng ai oán thoát ra từ ngọn đuốc, ngư dân phẫn nộ chửi rủa át tiếng cầu xin của đám binh sĩ, không lâu sau, chỉ còn lại một mình Tống Kim Cươngy đã bị hơn hai trăm người bao vây.
Chân y đã bị thương, chạy không nổi, y nhìn trời than vãn:
- Không ngờ Tống Kim Cương ta lại bị chết bởi đám ngu dân này!
- Giết…
Không biết là ai hô trước tiên, mấy trăm ngư khí cùng bổ xuống người y, khiến y bị đâm chết tươi ngay tại bãi cát.
Mặc dù nói triều đình cũng chịu tổn thất không nhỏ trong chiến dịch Trung Nguyên, nhưng bản thân thắng lợi lại mang đến cho quân dân triều Tùy sự cổ vũ rất lớn. Vừa đúng dịp tết Trung Nguyên, ngày lễ thờ cúng trời đất truyền thống cũng biến thành ngày lễ chúc mừng thắng lợi.
Bên trong thành Thái Nguyên, không chỉ có dòng sông được thả đầy thủy đăng, âm thanh mái chèo nhộn nhạo, ánh sáng chập chờn. Mấy con sông trong thành Thái Nguyên trở nên tràn ngập màu sắc.
Không chỉ ở sông, nhà nhà đều treo đèn hoa đăng lên, bày ra chậu vu lan, lấy cách thức này để ăn mừng quân Tùy đại thắng.
Trời vừa tối, vô số tiểu thương xuất hiện trên đường Tấn Dương. Khứu giác của bọn họ vô cùng nhạy bén, phát hiện thời cơ buôn bán đã đến. Tiểu thương tụ thập đông như vậy càng hấp dẫn nhiều người ra khỏi nhà. Nhất thời, người đi dạo phố, xem đèn chật ních trên các con đường lớn nhỏ của thành Thái Nguyên.
Đèn đuốc rực rỡ, toàn bộ thành Thái Nguyên sáng rực như ban ngày.
Trên đường cái, một đám trẻ con tay cầm thủy liên đăng vui vẻ chạy nhảy. Những quán nước nhỏ cũng chật ních khách quen. Mặc dù không phải là tết Nguyên Tiêu, nhưng đối với bọn họ, vui vẻ mới là điều quan trọng nhất.
Các thiếu nữ cũng kết lại thành đội du ngoạn trên đường, vây lấy các gian hàng bán đồ trang sức cùng son phấn, chọn mua các loại đồ trang sức hạ giá.
Ở một quầy bán đồ trang sức nhỏ, hai thiếu nữ đang cùng nhau chọn đồ trang sức. Mấy trăm loại trang sức đủ màu sắc khiến cho ánh mắt của hai nàng tràn đầy thích thú.
Hai thiếu nữ, một người ước chừng mười bốn tuổi, người kia chỉ vào khoảng mười một tuổi, đều có đôi mắt sáng, hàm răng trắng tinh khiến cho người khác phải rung động. Hai nàng mặc váy dài làm bằng vải đay loại thượng đẳng, khoác một chiếc áo ngắn, tóc búi sơ thành hai cuộn tròn như trăng rằm đầy tháng, làn da trắng noãn như ngọc.
Mặc dù quần áo trên người các nàng rất đơn giản, nhưng khí thái siêu phàm thoát tục tỏa ra từ hai nàng khiến cho nam thanh nữ tú ở xung quanh đều trở nên ảm đạm.
Tuy hai thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần nhưng tuyệt đối không có một người nào dám đánh chủ ý lên hai nàng, bởi vì bên cạnh hai nàng là bốn năm nữ binh đang nắm chặt bội đao trong tay, vóc người cường tráng, ánh mắt sắc lạnh.
Trên đường phố của Thái Nguyên xuất hiện nữ binh là chuyện rất bình thường, bọn họ đều là nữ binh hộ vệ. Ngày trước thì không có tập quán này, nhưng hiện tại dùng mãi thành thói quen. Có điều, những nữ binh này hình thức đều rất hung hãn, không có chút cảm xúc nào có thể xem là của nữ nhân, so với nam nhân còn cường tráng hơn.
Nhưng các nàng lại bảo hộ rất chu toàn cho hai thiếu nữ kia, nhìn có vẻ như không để ý nhưng thật ra là không hề có bất cứ một người nào có thể đến gần hai thiếu nữ. Ngay cả chủ gian hàng cũng thấy hai thiếu nữ này có thân phận không tầm thường.
Hai thiếu nữ này, người lớn tuổi chính là Công chúa Đan Dương nhà Tùy, Dương Phương Hinh. Còn người ít tuổi hơn chính là trưởng nữ của Dương Nguyên Khánh, Dương Băng.
Với phép tắc nghiêm ngặt của Dương phủ, đúng ra hai người không có cơ hội ra khỏi phủ, đây là do Dương Phương Hinh lấy cớ đi tham kiến mẫu hậu nên mới kéo Dương Băng ra ngoài.