Trong bóng đêm, Dương Nguyên Khánh đã cởi quan bào tím ra, thay một bộ áo giáp sáng lóa, đầu đội mũ giáp Ưng Lăng, tay cầm Phá Thiên sóc, ánh mắt lạnh lùng mà mãnh liệt nhìn quân giặc. Hắn nhẹ nhàng lắc lắc đầu, tổng cộng chỉ có bốn ngàn người, không ngờ còn phân tán binh lực bao vây thôn, sợ mình bỏ chạy. Bọn họ nghĩ bốn trăm kỵ binh là cái gì? Là bốn trăm con trâu à?
-Tướng quân, thực con mẹ nó một đám ô hợp!
Thủ lĩnh thân vệ Trương Thắng không kìm nổi.
-Không được khinh địch!
Dương Nguyên Khánh quát lớn, quay lại nhìn bốn trăm thủ hạ, một đám tinh thần phấn chấn, khôi giáp sáng choang, tay cầm cung tiễn sắc bén, ánh mắt ai nấy đều tràn đầy khát vọng với chiến tranh.
Ánh mắt Dương Nguyên Khánh dừng lại trên hơn mười ngự sửa kia, bọn họ cũng thay khôi giáp, tay cầm chiến đao, tuy bên ngoài nhìn cũng không thua kém binh lính là bao nhưng sự khẩn trương và khiếp đảm trong ánh mắt của họ vẫn không giấu được.
-Bảo vệ tốt quan viên, trước tiên lao ra đi!
Dương Nguyên Khánh vung trường đao:
- Các huynh đệ, theo ta xông lên!
Hắn dẫn ngựa xông lên, bốn trăm kỵ binh hộ vệ mười hai tên Ngự Sử theo sát sau đó, giống như một cái mâu sắc bén, lao thẳng tới đại quân phía ngoài trăm thước. Dương Nguyên Khánh dẫn đầu, giống như một mũi mâu sắc bén, tiếng vó ngựa như sấm, từng bóng ngựa lao đi như tia chớp giữa đêm, chỉ một thoáng đã vọt vào bên trong quân địch.
- Giết!
Dương Nguyên Khánh hét lớn một tiếng, chiến mã lướt qua đầu quân giặc, Phá Thiên Sóc đâm tới một gã, gã không kịp phòng bị, một đao xuyên ngực, bị giơ lên cao giữa không trung. Dương Nguyên Khánh vung trường sóc, ném bay thi thể qua một bên. Mũi sóc rất lớn vung trái vung phải, đánh nát đầu vài tên địch. Hắn phóng ngựa bay nhanh, một đường bổ chém, những nơi hắn đi qua thây ngã như ngả rạ, sương máu tràn ngập, giết mở ra một đường máu.
Đoàn quân địch bị giết một cách hung hãn sợ tới mức hồn bay phách lạc, thấy chiến mã của hắn phóng tới liền nghiêng ngả lảo đảo chạy trốn sang hai bên, giống như rẽ sóng tạo thành một con đường. Chỉ khoảng nửa khắc, Dương Nguyên Khánh đã dẫn đội kỵ binh chạy thoát khỏi vòng vây. Hắn quay đầu nhìn lại, hơn bốn trăm danh thủ hạ và mười hai danh Ngự Sử không thiếu một người.
Dương Nguyên Khánh lập tức lệnh một gã đội trưởng lĩnh suất một đội năm mươi danh kỵ binh hộ vệ Ngự Sử tới thị trấn trước, vừa nói vừa nhìn trên đại kỳ quân địch có ba chữ “Tri thế lang” – không ngờ đây chính là đội ngũ của Vương Bạc – Lúc này, Dương Nguyên Khánh đã không muốn rời đi nữa, hắn muốn để cho lũ trộm cướp Vương Bạc và Sơn Đông kia nhỡ kỹ cái tên Dương Nguyên Khánh của hắn.
Dương Nguyên Khánh quay đầu nhìn lại, dưới ánh trăng, chỉ thấy trong ánh mắt ba trăm năm mươi kỵ binh đã sáng lên sự hưng phấn và chờ mong, hắn gật gật đầu, cao giọng:
- Xếp thành hàng, chuẩn bị nghênh chiến!
Ba trăm năm mươi kỵ binh xếp hàng thành đội, nhanh chóng xếp thành bảy nhóm, đội ngũ chỉnh tề như một bàn tay năm ngón vậy, đằng đằng sát khí chờ đợi một trận chiến với quân địch.
Cho tận tới khi quan binh thoát khỏi vòng vây Vương Bạc mới ý thức được mình đã phạm phải một sai lầm cực lớn, binh lực y mang theo không đủ để hắn bao vây thôn trang, vòng tròn kéo quá lớn đã phân mỏng binh lực của y. Mà đối phương lại là kỵ binh - một chọi một, bộ binh của y căn bản không phải đối thủ, mới có thể khiến cho quan binh dễ dàng thoát khỏi vòng vây.
Vương Bạc thầm thở dài, vì mình quá nóng vội mà hỏng việc, nhưng rất nhanh, từ chán nản đã biến thành niềm vui bất ngờ, không ngờ đối phương không chạy trốn mà chỉnh đốn hàng ngũ quay lại quyết chiến với mình.
- Đại ca, có chút không bình thường!
Thủ hạ của y phát hiện đối phương có gì đó không bình thường, chỉ vào đám quan binh cách đó mấy trăm bước:
- Nhìn kìa!
Vương Bạc đã thấy, dưới ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lẽo, một đội kỵ binh chỉnh tề đứng giữa cánh đồng hoang bát ngát, khôi giáp sáng loáng, như một khối thép cứng rắn lạnh ngắt, đằng đằng sát khí, khiến cho người ta không rét mà run.
Trong lòng Vương Bạc cũng hoặc nhiều hoặc ít sinh ra một tia nghi ngờ, hai năm nay y ở quận Lỗ, Lang quận Gia, quận Tế Bắc cũng có tiếp xúc với một ít quan binh, đám quan binh đó vài chục năm nay còn chưa đánh giặc, ngoại trừ trang bị có tốt hơn một chút, lực chiến đấu cũng chỉ bằng bọn y, thậm chí còn không bằng thủ hạ của y.
Nhưng đội ngũ kỵ binh trước mắt này lại hoàn toàn khác biệt, toàn thân bọn họ tràn ngập sát khí, khiến cho bọn họ tuy chỉ có hơn ba trăm người nhưng lại như thể tới hàng ngàn hàng vạn người.
- Đại ca, chúng ra thử hỏi Lý trưởng, lão biết rõ tình hình!
Một vài tên lính dẫn theo người vào trong thôn lôi Lý trưởng ra, lão đã sợ tới mức cả người đều run, chân cũng không động đậy nổi, gần như bị quân giặc lôi đi.
Vương Bạc dùng roi nâng cằm Lý trưởng lên, sắc mặt âm u hỏi:
- Ta muốn hỏi, đầu lĩnh đội quan binh này là ai?
- Họ Dương… Là Ngự Sử Đại Phu!
Lý trưởng run rẩy đáp lại.
- Họ Dương, Ngự Sử Đại Phu?
Vương Bạc tập trung suy nghĩ, bỗng nhiên giật mình kinh hãi, thốt ra:
- Dương Nguyên Khánh!
Quan quân tâm phúc bên cạnh sợ tới mức lui lại đằng sau hai bước, chính là Dương Nguyên Khánh được xưng Thiên hạ đệ nhất tiễn, ở Phong Châu đã tiêu diệt toàn bộ một trăm ngàn quân Hồ sao?
Vương Bạc quay roi về phía quan quân đang muốn chạy, hung tợn trừng mắt:
- Không được!
Tới tận lúc này Vương Bạc mới hiểu được, vì sao Lưu Bá Đạo không dám đoạt chiến mã của đội kỵ binh này. Hóa ra thủ lĩnh của đội ngũ này không ngờ chính là Dương Nguyên Khánh, lòng y vừa hận lại vừa hối, hận Lưu Bá Đạo đào hố sau lưng mình, hối là hối chính mình trước khi đánh không tìm hiểu cho rõ đã tùy tiện xuống núi.
Nhìn thoáng qua hơn ba trăm kỵ binh đối phương, Vương Bạc lại quay đầu nhìn đội quân của mình, lòng thầm thở dài. Hiện giờ mình rút lui, tất nhiên sẽ bị đối phương đuổi giết, thất bại thảm hại. Chỉ có thể kiên trì đánh một trận với đối phương, lấy mười địch một, nếu chính mình có thể đánh bại Dương Nguyên Khánh, thậm chí giết hắn, chắc chắn danh chấn thiên hạ. Nghĩ vậy, trong lòng Vương Bạc lại hơi thoáng lên một tia dũng khí.
Y quay đầu lớn tiếng quát:
- Tất cả xếp thành hàng, chuẩn bị tác chiến!
Lúc này đây y sẽ không dám phân tán đội đi nữa, mà cả đội đều tập kết cùng một chỗ, chuẩn bị đánh một trận tới cùng với hơn ba trăm kỵ binh của đối phương.
Quân giặc từ bốn phương tám hướng tụ lại, thủ lĩnh đám thị vệ Trương Thắng nói khẽ với Dương Nguyên Khánh:
- Đại tướng quân, không bằng thừa dịp bọn chúng chưa tập kết xong…
Dương Nguyên Khánh nhìn trận hình rối ren loạn cả lên của đối phương, cười lạnh một tiếng:
- Đối phó với đám ô hợp này không cần phải đánh lén. Khỏi làm bẩn cái tên của ta!
Bốn ngàn quân giặc nhanh chóng tập trung lại, Vương Bạc không để cho thủ hạ có cơ hội để do dự sợ hãi, vung chiến đai:
- Giết!
Mấy ngàn quân giặc tay cầm côn mộc trường mâu như thủy triều xông lên, lao về phía đội kỵ binh cách đó ngoài ba trăm bước.
- Xếp trận tiễn!
Dương Nguyên Khánh vừa hạ lệnh, ba trăm năm mươi kỵ binh nhanh chóng sắp thành hai hàng hình cung. Trong ba trăm năm mươi kỵ binh có một trăm người là quân tinh nhuệ nhất Phong Châu, hai trăm năm mươi người khác cũng là tinh nhuệ trong cấm quân, ai nấy đều thành thạo cung mã, đều là người có tố chất được huấn luyện, cả nhóm kỵ binh đầu giương cung cài tên chuẩn bị bắn.
Quân địch tràn lên càng lúc càng gần, đã vào tới trăm bước. Dương Nguyên Khánh cũng giương cung cài tên, chậm chậm nâng cung, buông dây, một Lang Nha tiễn bắn ra như tia chớp, một gã cưỡi ngựa cầm đầu bị một tiễn bắn xuyên cổ họng, kêu thảm một tiếng, ngã xuống ngựa.
Tên của Dương Nguyên Khánh chính là mệnh lệnh, ba trăm năm mươi kỵ binh cùng nhau bắn tên, làn mưa tên dày đặc lao về phía quân địch. Quân địch cơ bản đều không có khôi giáp, đội ngũ dày đặc, chỉ nghe thấy một mảnh tiếng kêu thảm thiết, từng nhóm địch ngã xuống. Lượt tên thứ nhất giết chết hơn hai trăm người.
Nhưng hơn hai trăm người chết cũng không ảnh hưởng nhiều lắm tới bốn ngàn bộ hạ, đám đông vẫn tiếp tục dâng lên, trường mâu dày dặc như rừng, tiếng hô rung trời. Khi chỉ còn năm mươi bước, kỵ binh quân Tùy bắn ra đợt tên thứ hai, mấy trăm ngọn tiễn dày đặc xé không trung nhắm thẳng vào đám người, lại là vô số tiếng kêu thảm thiết. Lúc này đây, đội hình quân địch đã bắt đầu khiếp đảm, bước chân rõ ràng đã chậm lại, ý chí chiến đấu cũng nhanh chóng biến mất.
Ngay sau đó Dương Nguyên Khánh vung tay lên, kỵ binh nhanh chóng lùi lại hơn mười bước. Lượt tên thứ ba, thứ tư, thứ năm liền một lúc được bắn ra. Liên tiếp năm lượt tên, quân giặc đã chết tới gần hai phần, hơn bảy trăm người.
Chết hai phần cũng đã bắt đầu ảnh hưởng tới sỹ khí quân Tùy. Huống chi đối với loạn dân tạo phản được huấn luyện cực kém. Bị tấn công quá mạnh, thấy đồng bọn đứng ngay cạnh mình chết dần, mà đối phương toàn thân khôi giáp, trang bị hoàn hảo, lại còn là kỵ binh đằng đằng sát khí. Sỹ khí quân địch vốn đang tận, đã nhanh chóng sụp đổ, cũng không biết là ai quay đầu trước, mấy ngàn quân giặc hô to một tiếng, quay đầu chạy trốn.
Dương Nguyên Khánh vung chiến đao, gào lớn:
- Giết!
Ba trăm năm mươi kỵ binh cùng tấn công, tiếng chân như sấm, múa chiến đao và trường mâu, tiến sát tới giữa quân giặc. Hơn ba ngàn quân giặc bỏ chạy tứ phía, kêu khóc không ngừng, đội kỵ binh vẫn không chút khoan dung, đao bổ mâu đâm, trận chiến này giết tới máu chảy thành sông, thi thể ngổn ngang khắp nơi, người đầu hàng nhiều vô số.
Vương Bạc luôn ở đằng sau đội ngũ, khi quan binh dừng hai lượt tiễn, lui về đằng sau bắn lượt thứ ba, y đã biết đại thế đã mất, trong nháy mắt bộ hạ sụp đổ, y đã quay đầu chạy trốn đầu tiên, dẫn theo hơn trăm thân binh chạy tới hướng Trường Bạch Sơn.
- Dừng truy kích!
Dương Nguyên Khánh hạ lệnh dừng truy kích, thu nạp lính quy hàng. Hắn ghìm cương chiến mã nhìn khắp nơi, chỉ thấy trong bóng đêm, trong phạm vi trăm mẫu trên cánh đồng bát ngát vẫn còn ngổn ngang thi thể quân địch, còn có không ít thương binh nằm trong vũng máu vẫn rên rỉ cầu xin.
Dương Nguyên Khánh chinh chiến nhiều năm, đã sớm vững tâm như sắt, kể cả những phản tặc này đều là nông dân cùng đường bị buộc phải làm phản, nhưng bọn chúng cũng không phải thay trời hành đạo, đi đánh quan binh, chém giết quan lương. Mục tiêu của chúng lai nhắm ngay vào dân chúng còn yếu hơn còn vô tội hơn, khi đánh cướp giết người, dâm nhục phụ nữ cũng không lưu tình chút nào. Đối với đám phản tặc này Dương Nguyên Khánh không có bất luận một chút thương hại nào, chỉ có thể dùng máu mới tẩy đi được sự thô bạo của thời đại này.
Rất nhanh có quân sĩ tiến tới bẩm báo:
- Bẩm Đại tướng quân, giết hai ngàn quân giặc, bắt được hơn một ngàn tên, chạy trốn không tới một ngàn tên.
- Các huynh đệ thương vong thế nào?
- Chín huynh đệ hi sinh, bị thương mười bốn người!
Dương Nguyên Khánh gật gật đầu, lập tức ra lệnh:
- Rửa sạch đồ dùng, thu nhặt binh khí, tất cả thi thể người chết trận chôn sâu ngay tại chỗ!
Lúc này, phía xa xa, một đội kỵ binh hăng hái chạy tới, ước khoảng hơn năm trăm người, Đại tướng cầm đầu chính là Tề quận thừa Trương Tu Đà. Biết được tin tức mấy ngàn quân giặc xuống núi, tiến về hướng Hoàng Hà, ông ta liền đoán được Vương Bạc có thể là đến đối phó với Dương Nguyên Khánh, lập tức cảm thấy sợ hãi, dẫn quân tới giúp.
Ở trên đường ông ta bắt được vài tên giặc bỏ chạy, biết được quân giặc đã tan tác, bốn ngàn người bị hơn ba trăm kỵ binh của Dương Nguyên Khánh giết đại bại mới thả lỏng tâm tình.
Trong bóng đêm, Dương Nguyên Khánh đã đi lên đón, từ trên lưng ngựa thật xa đã chắp tay:
- Sư phụ, xin nhận lễ của đồ nhi!
Trương Tu Đà chào ái đồ, lòng cực kỳ vui mừng, vuốt râu ha hả cười to:
- Nguyên Khánh, đây là lễ ra mắt ta sao?
- Cứ cho là vậy đi ạ!
Dương Nguyên Khánh nhìn đống binh khí đồ dùng xếp như núi, một đội tù binh, còn thu được hơn mười ngàn xâu tiền, cười:
- Chỗ đó đồ nhi không cần, toàn bộ giao cho sư phụ đi.
- Ta sẽ không khách khí đâu.
Trương Tu Đà xoay người xuống ngựa, bước nhanh tới trước đống đồ, nhặt một trường mâu lên nhìn nhìn. Ném xuống, lại nhặt lên một thanh chiến đao, múa máy một hồi, vẫn lắc đầu.
Dương Nguyên Khánh bước lên cười hỏi:
- Đống binh khí đó thô sơ, chẳng lẽ sư phụ còn muốn so sánh với binh khí của quân Tùy sao?
Trương Tu Đà thở dài:
- Tháng trước, một ngàn người binh lính quận Lang Gia bị năm ngàn phản tặc núi Trương Bạch đánh bại, cũng không dùng kế sách gì, chỉ là giữa cánh đồng bát ngát lấy cứng đối cứng mà đánh tới cùng. Lúc ấy ta cảm thấy hơi kỳ quái, quân đội của Vương Bạc từ khi nào đã trở nên hung mãnh như vậy. Nhìn đống binh khí đó, ta lại càng không nghĩ ra, quân Tùy ngay cả phản tặc như vậy cũng đánh không nổi sao? Binh khí sơ sài, không có khôi giáp làm tấm chắn, thậm chí ngay cả cung tên cũng không có, ba trăm năm mươi kỵ binh cũng có thể đánh tan bốn ngàn phản tặc, mà một ngàn bộ binh còn thua trong tay năm ngàn phản tặc, chẳng lẽ quận binh của chúng ta lại không ổn tới mức đó sao?
Dương Nguyên Khánh không nói gì, hắn lục lọi trong đống binh khí nửa ngày, cuối cùng lắc đầu:
- Sư phụ, đánh bại binh lính quận Lang Gia không phải đội quân này. Nếu đánh bại quận binh, bọn họ nên thu được vũ khí khôi giáp của quân Tùy mới phải, nhưng ở đây không có, hoặc là quân đội của Mạnh Nhượng, sư phụ thử đi hỏi một tù binh xem.
- Đi hỏi đi!
Trương Tu Đà sai thủ hạ, gã lập tức tới hỏi, lúc này Dương Nguyên Khánh lại nhìn thoáng qua quan tướng thủ hạ của Trương Tu Đà, phát hiện mình không thấy mấy lão bằng hữu kia đâu, không khỏi kỳ quái hỏi:
- Sư phụ, bọn Tần Quỳnh đâu?
- Tần Quỳnh và La Sĩ Tín ở lại thủ thành, Trình Giảo Kim không ở quận Tề nữa rồi.
- Vì sao?
Dương Nguyên Khánh ngạc nhiên, lại vội vàng hỏi:
- Y đi rồi sao?
Trương Tu Đà lắc đầu thở dài:
- Đầu năm trước mẫu thân cậu ta bệnh nặng, cậu ta đi khắp nơi tìm y vấn dược. Sau lại có người nói cho cậu ta, quận Đan Dương có một danh y tên Triệu Trị Thiện, có thể trị khỏi được bệnh cho mẫu thân cậu ta, cậu ta liền xin phép với ta, đưa mẫu thân tới miền Nam xem bệnh. Đi rồi cũng biệt vô âm tín luôn, ta phái người đi tìm cậu ta, thầy thuốc đó một năm trước đã đi rồi, không biết tung tích. Haizzz! Thằng nhóc đó tuy thô lỗ một chút, nhưng cũng là một người con chí hiếu!
Dương Nguyên Khánh cũng có hơi tiếc nuối, hắn cũng không biết trong lịch sử quỹ tích nhân sinh của Trình Giảo Kim như thế nào, chỉ hy vọng lần sau gặp y không phải là ở trên chiến trường.
Lúc này, thân binh của Trương Tu Đà quay về bẩm báo:
- Quận Thừa, quân phản tặc đánh bại quận Lang Gia không phải là thủ hạ của Vương Bạc,mà là Mạnh Nhượng.
- Hóa ra là y, khó trách!
Lòng Trương Tu Đà hơi chùng xuống, Mạnh Nhượng là thủ hạ nhiều năm của ông, quan hệ kết giao sâu sắc, lại chạy đi làm đầu lĩnh phản tặc, thực khiến cho ông khó có thể chấp nhận.
Trương Tu Đà lập tức lệnh cho thủ hạ thu thập đồ dùng, vật tư, nửa canh giờ sau, bọn họ áp tải hơn một ngàn tù binh tiến về hương huyện Lịch Thành.
Trên đường về, Trương Tu Đà và Dương Nguyên Khánh cùng nhau dẫn đầu, Trương Tu Đà chậm rãi hỏi:
- Nguyên Khánh, con thấy thời cuộc thế nào?
Hắn thản nhiên đáp:
- Thiên hạ tất đại loạn, quần hùng tranh giành, thắng làm vua thua làm giặc!
Trương Tu Đà cả người chấn động, quay đầu chăm chú nhìn hắn:
- Vậy Đại Tùy thế nào?
Dương Nguyên Khánh có thể cảm nhận được sự kinh hãi trong lòng sư phụ, hắn biết có một số chuyện không thể nói quá sớm, đành cười:
- Sư phụ không cần khẩn trương, cái này có lẽ là con nói chuyện dọa người thôi, thời cuộc hẳn là sẽ không bị phá hỏng tới mức đó.
Trương Tu Đà nhẹ thở hắt ra, cũng than thở nói:
- Thánh Thượng thực sự không nên phát động chiến tranh Triều Tiên!
…
Giữa trưa ngày kế, đội kỵ binh áp giải tù binh đến huyện Lịch Thành, còn cách thị trấn vài dặm, bọn Dương Nguyên Khánh đã thấy ruộng lúa, lúa vàng óng ánh, mênh mông vô bờ, xanh xanh vàng vàng, ruộng lúa đã sắp chín, nhìn như một đại dương không gió.
Nhìn cảnh này, không chỉ Dương Nguyên Khánh và kỵ binh thủ hạ của hắn kinh hô, ngay cả đám tù binh bị bắt cũng kích động vạn phần, quỳ gối khóc rống lên, ruộng lúa khiến cho bọn chúng nhớ lại cuộc sống của mình từ trước tới giờ, nhớ tới thân nhân của mình, chỉ cần có một chút hy vọng, bọn họ sẽ không vào rừng làm cướp.
- Giờ còn biết khóc sao, biết hối hận rồi chứ!
Trương Tu Đà oán hận:
- Nạn hạn hán đã chấm dứt, nhưng nơi nơi vẫn là một mảnh hoang vu, không phải là do đám phản tặc các ngươi làm hại sao? Thấy ai cũng đốt giết cướp bóc, còn ai dám làm ruộng?
Lại nói với Dương Nguyên Khánh:
- Hiện giờ cũng chỉ có ở các thị trấn biên giới mới có chút lương thực, có quân đội bảo vệ, đám tặc còn không dám tới cướp bóc.
- Hiện huyện Lịch Thành có bao nhiêu người, lúa có thể nuôi sống được sao?
- Huyện Lịch Thành tập trung hai mươi mấy vạn người, vô cùng chật chội, trong tay nhà giàu còn có chút lương thực, trong nhà kho quan thương cũng có một chút, hơn nữa, ngoài thành lại có thêm một chút, mỗi ngày mỗi người được một lượng nhất định, trên cơ bản có thể duy trì no bụng. Nhưng mùa đông năm nay khẳng định không thể cố gắng qua, ta nhất định phải ra tay trước vụ hè, tiêu diệt toàn bộ quân Vương Bạc và Mạnh Nhượng, như vậy còn có thể gieo thử chút kê đậu, đảm bảo lương thực mùa đông.
- Đám tù binh đó làm sao bây giờ?
Dương Nguyên Khanh chỉ một ngàn tù binh.
Trương Tu Đà do dự một chút:
- Ý chỉ của Thánh Thượng là bắt được giết luôn, không lưu hậu hoạn, nhưng hiện giờ nhân khẩu quận Tề giảm rất nhiều, hơn nữa nam tử trẻ tuổi tráng niên cực kỳ thiếu, hơn một ngàn tù binh này ta tính để cho bọn họ nhập ngũ với chúng ta, giết bọn họ rất đáng tiếc.
Dương Nguyên Khánh gật gật đầu, đây là chuyện của Trương Tu Đà, hắn không muốn quản nhiều. Hai người đi tới cổng huyện Lịch Thành, Thái Thú quận Tề Dương Trí Tích đã sớm chờ ở đây. Dương Trí Tích đã làm Thái Thú quận Tề năm năm, cũng đã mơ mơ màng màng trải qua năm năm, gần như chuyện gì lão cũng không quản, toàn bộ đều ném sang cho Quận Thừa Trương Tu Đà. Có thể lão ngu ngốc, nhưng chuyện tiếp đãi Ngự Sử triều đình gì đó cũng khá nghiêm túc, cấp bậc lễ nghĩa chu đáo, an bài tận thiện tận mỹ.
Ngày hôm qua mười hai Ngự Sử đã tới trước một bước, được lão an bài ở dịch quán tốt nhất quận Tề, phái người chuyên môn hầu hạ, còn tìm riêng hơn mười ca cơ (nữ ca sĩ do triều đình, quan phủ hoặc tư gia nuôi dưỡng) mỹ mạo đi cùng.
Trương Tu Đà và Trương Trí Tích cộng sự nhiều năm, biết rõ lão chỉ dùng kế giả vờ hồ đồ, bề ngoài ngu ngốc, thực ra lại rất tinh tế. Hai người bọn họ cũng đã sớm có ăn ý, Trương Tu Đà quản việc quân, Dương Trí Tích quản việc triều đình.
Dương Nguyên Khánh lần trước đi Liêu Đông có ghé qua quận Tề gặp qua Dương Trí Tích, quan hệ với lão cũng không tồi, người này gặp mặt cũng khách khí lạ thường.