Cái ống đựng bút đó, không thể nghi ngờ việc nó là món quà sinh nhật thần bí nhất mà tôi nhận được trong suốt quãng thời gian học đại học.
Gần cuối kỳ thi năm thứ ba đại học, tinh thần mạo hiểm đã khiến tôi với Tiểu An quyết định tới phòng học nổi tiếng bị ma ám của trường lúc xế chiều để tự học. So với các phòng học đã được tu sửa lại trong gần hai mươi năm gần đây, căn phòng này có đèn trần treo khá cao, ánh đèn mờ ảo chiếu xuống khiến mọi vật trông giống như được phủ bởi 1 lớp váng dầu mỏng, từ cửa sổ nhìn ra có thể thấy cái cây khô trơ trụi lá, những nhành cây bén nhọn đâm thẳng lên bầu trời. Trong phòng học chỉ có mỗi hai người chúng tôi, buồn ngủ đến rũ cả người mà vẫn cố ngồi học thuộc lòng phần lý thuyết môn văn nghệ mỹ học khô khan, sau đó lại cùng nhau đi tìm nhà vệ sinh. Kết quả là lúc về đến phòng ngủ đêm hôm đó, bỗng nhiên phát hiện ra trong ba lô của mình có một cái ống đựng bút bằng sứ, không hề được gói bọc gì hết, nằm trơ trọi cạnh cái hộp kính tôi quẳng trong ba lô, trên thân ống lộ ra những đường nét và màu sắc của một bức tranh: từng phiến lá mỏng xanh mướt với những đường gân lá được vẽ rất rõ ràng, phía trên còn vẽ một khóm hoa rất đẹp không rõ tên gì đang nở rộ, lẻ loi nhưng tràn đầy sức sống, mạnh mẽ vươn mình lên đón nắng.
“Có khi là quà của hồn ma tặng cho cậu đó.” Tiểu An nói, vừa nói vừa khẽ rùng mình.
“Cũng có thể lắm.” Tôi phụ họa, nhưng lại chẳng hề thấy sợ chút nào: “Nếu thật là do hồn ma tặng, thì nhất định đó cũng phải là một hồn ma có khiếu thẩm mĩ cao nhỉ?” Hồi đó tôi khá rụt rè, nhưng nhiều lúc lại can đảm đến bất ngờ. Sau khi được biết hoa văn trên ống bút là bản vẽ tay thì tôi lại càng quý trọng nó, mặc kệ là quà của ai tặng, người ta đã có lòng như vậy, tôi thực lấy làm cảm kích.
Sau đó một tuần, thi xong môn triết học chủ nghĩa Mác, Tiểu An bị tác động bởi thuyết duy vật, cho rằng hồn ma chỉ là trò bịa đặt vớ vẩn, lại nảy ra ý kiến khác: “Có khi đó là quà của người nào đó thích thầm cậu tặng cũng nên, tự tay thiết kế và vẽ hoa văn trên ống đựng bút màu trắng tặng cậu để bày tỏ tình cảm, thật quá lãng mạn. Cậu cứ chờ xem, chắc chỉ mấy ngày nữa người đó sẽ xuất hiện thôi.”
Lời đồn này sau đó cũng tự biến mất, bởi vì người kia vẫn không thấy xuất hiện.
Lời đồn này sau đó cũng tự biến mất, bởi vì người kia vẫn không thấy xuất hiện.
Những ngón tay thon dài của Nhâm Phi lúc này đang không ngừng chuyển động trước mặt tôi. Tôi mở to cả hai mắt, biết bao nhiêu ký ức trong quá khứ bỗng tái hiện lại trong nháy mắt, mãi tôi mới hồi phục lại tinh thần. Đập vào mắt là dòng chữ “Trứng chim Đỗ Quyên là của ai” in trên trang bìa, trên bìa còn in thêm hình một quả trứng, có một đứa trẻ sơ sinh đang phá vỏ trèo ra, Nhâm Phi cầm lấy tách trà lúc trước tôi rót cho cậu ấy, màu trà đã chuyển thành nâu sẫm, có vẻ đã nguội rồi.
“Vẽ xong rồi sao?” Tôi hỏi, vừa nói vừa nghi hoặc đón lấy quyển sách, lật mở trang đề tên sách. Cậu ấy không trả lời tôi, chỉ lẳng lặng uống tách trà đã nguội. Ánh mắt của tôi dồn cả vào khóm hoa được vẽ giữa trang đề tên sách.
Một thời gian dài sau đó, khi nghe lại những bản nhạc xưa, đôi khi tôi vẫn nhớ đến thời khắc này. Đối với quãng thời gian hai mươi bảy năm cuộc đời của tôi mà nói, chỉ có duy nhất một khoảng hoàn toàn trống rỗng, cảm giác như tôi đã biến mất khỏi thế gian này trong một phút vậy. Tôi nhìn đến khóm hoa giống y như đúc hoa văn được vẽ trên ống bút đã bị tôi đánh vỡ, phải cố hết sức kìm chế cảm xúc mới có thể cất tiếng hỏi: “Cái ống đựng bút đó, là của cậu tặng ình sao?”
Cậu ấy đặt cái chén không đang cầm trên tay xuống, cũng không nhìn tôi, một lúc lâu sau mới nói: “Có lẽ vậy…” Lúc lâu sau, lại nói tiếp: “Nhớ lúc tốt nghiệp mình có hỏi cậu, sau khi ra trường sẽ đi đâu, làm cái gì. Cậu đã nói cậu dự định đến Úc, tiếp tục học.” Cậu ấy ngẩng đầu cười gượng: “Không ngờ được, cuối cùng cậu lại mở khách sạn này.”
Ký ức cuối cùng được lưu lại trong tâm trí tôi về buổi chiều hôm đó, chỉ là một khoảng không trầm lặng. Khi cậu ấy cầm cái bình chuẩn bị cho thêm trà thì cô vợ xinh đẹp hiện đang là giảng viên dạy mĩ thuật của cậu ấy đã vác theo bảng vẽ đứng ở cổng vườn, vẫy tay từ phía xa gọi chúng tôi: “Nhâm Phi, Đàm Nhiên, em vừa vẽ được mấy bức tranh rất đẹp, hai người có muốn tới xem chút không?” Cậu ấy liền đặt bình trà xuống, đứng dậy đi đón vợ của mình.
Tôi khẽ vỗ trán, cảm thấy khóe mắt mình hơi ươn ướt, ngẩng đầu lên nhìn những đóa hoa Tử Đằng với màu sắc rực rỡ đang nở rộ, lại nghe thấy giọng đầy lo lắng của Michelle:“Đàm Nhiên cậu bị làm sao vậy?”
Tôi cười cười, đem vật đang cầm trong tay, quyển “Trứng chim Đỗ Quyên là của ai” đưa cho cô ấy: “Không có gì, chẳng qua là… từ biệt quá khứ. Tặng cho cậu đó.” Suy nghĩ chút, lại nói thêm một câu: “Chúc cậu hạnh phúc.” Michelle dùng những ngón tay mảnh khảnh mở quyển sách, rồi reo lên: “Đây là hoa gì vậy, đẹp quá.” Nhâm Phi đứng bên cạnh lên tiếng giải thích: “Diên Vĩ.” Dừng một chút, lại nói tiếp: “Vốn dĩ muốn vẽ hoa Diên Vĩ, cuối cùng lại vẽ thành như vậy.”
Thì ra là vậy.
Không tới vài ngày, tôi sắp xếp hành lý lên đường đi Shangri-La, nơi đó không tính là quá xa, nhưng cũng không coi là quá gần, có thể sẽ làm tôi nhớ lại điều gì, cũng có thể sẽ quên được chuyện gì, mỗi một chuyến đi cũng chính là một chặng đường đời mới mẻ. Thế gian tồn tại cái gọi là sự nuối tiếc, những hối tiếc lúc này, cũng chỉ là phần nổi của tảng băng trôi của những tiếc nuối trong cuộc đời thôi. Giả như ta cứ sống với sự cố chấp trong quá khứ, nhưng, năm tháng trôi qua cũng giống như một con sông rộng lớn, có những lúc ta cảm thấy nó cứ xuôi dòng mà chảy theo năm tháng chẳng hề thay đổi, nhưng nước chảy cũng có khi này khi khác, nhìn chung thì vẫn có sự khác biệt, tôi luôn nghĩ thế.
Ngày mùng ba tháng sáu, tôi gửi cho Tiểu An một tấm bưu thiếp, rồi vác theo cái ba lô to xụ trên lưng, thẳng tiến đến Shangri-La(*).
(*)Shangri-La hay còn gọi là Hương Cách Lý Lạp: là một địa điểm du lịch hấp dẫn nằm giáp ranh giữa tỉnh Vân Nam, Trung Quốc với khu tự trị Tây Tạng.