Áo lụa vàng nhạt mềm mại còn chưa hoàn toàn kéo lên đầu vai, trên bả vai Cố Liệt, hình xăm hoả phượng đỏ thẫm như máu lộ ra nửa chiếc cánh, nhìn lướt qua, giống như áo lụa đang bùng cháy.
Tiên dân của Kinh Sở yêu thích tự nhiên, sùng bái thái dương và hoả thần Chúc Dung, hoả phượng là chú chim đỏ son giữa buổi ban trưa, cũng chính là hoá thân của hoả thần.
Vậy nên hoả phượng là thần điểu, là bách điểu chi vương.
《 Xuân Thu diễn khổng đồ 》 ghi chép: Phượng, tinh hoa của hoả, sinh từ động son, không ngô đồng không đậu, không trúc thực không ăn, không suối ngọt không uống, thân mang ngũ sắc, hót mang ngũ âm, có Đạo hiện thân, bách điểu triều phụng.
Bởi vậy người Sở lấy hoả phượng làm đồ đằng, dùng phượng văn trang trí vương phục, bội kiếm và ngọc tỷ của Sở Vương.
Ví dụ như phượng văn trên thân thanh Tử Sương Kiếm của Cố Liệt, những phượng văn này thông thường là phượng hót khởi vũ cao ca, hoặc cao lập lưu vân, hoặc hàng long phục hổ, tượng trưng cho người Sở yêu thích sinh hoạt bình yên nhưng đồng thời cũng có dũng khí không sợ cường địch.
Hơn nữa dân chúng Kinh Sở còn liên hệ giữa tình yêu và hoả phượng thanh loan, miệng truyền miệng truyền thuyết về thần thoại hồng loan tinh động.
Thế nhưng, con hoả phượng trên lưng Cố Liệt này, lại nhẹ nhàng khởi vũ từ trong biển lửa, rồi nó vỗ cánh cuồng vũ, đôi cánh mạnh mẽ dang rộng, ngọn lửa bén thân, như oan khuất của Sở Cố ngưng kết thành một con phượng hoàng sống, nùng liệt mà thiêu đốt trên lưng Cố Liệt.
Cố Liệt nghe thấy tiếng lập tức mặc xong áo lụa, buộc dây vạt áo, rồi xoay người lại. Quả nhiên là Địch Kỳ Dã.
Dù sao nhóc ăn mày cũng sẽ không thiếu lễ phép như vậy.
Cố Liệt quần áo chưa chỉnh, tóc cũng chỉ dùng đai lưng tuỳ ý buộc lên, đang sốt ruột đến không được vì vấn đề lễ nghĩa của tướng quân nhà mình.
Chỉ một ánh nhìn, hoả phượng ấy đã như thể đang cháy trên đôi mắt Địch Kỳ Dã, chẳng thế xoá đi.
Màu đỏ tươi sinh động như vậy, là làm như thế nào mới nổi vân lên được?
“Xăm hình, tự nhiên đều là chấm thuốc màu, đâm từng châm từng châm mà thành.”
Một bức hoả phượng lớn thế này, chẳng phải giống như khổ hình?
Nghe thấy Cố Liệt trả lời, Địch Kỳ Dã mới phát hiện mình đã hỏi thành tiếng, phục hồi tinh thần, hỏi: “Hoả phượng, ý chỉ phượng hoàng niết bàn, dục hoả trùng sinh sao?”
Lại là những từ kỳ lạ không biết đọc ở đâu.
Cố Liệt nhíu mày suy tư, trả lời từng câu: “Hoả phượng là đồ đằng của Kinh Sở ta, tượng trưng cho hoả thần, thái dương.”
“Niết bàn, xuất phát từ Kinh Phật phương Tây, ta chưa từng nghiên cứu Phật hiệu, chỉ biết một vài điều. Ý nghĩa ban đầu của niết bàn, là dập tắt tham sân si trong thế gian, không lại bị quấy rầy bởi dục vọng, hình dung đã tu hành Phật hiệu tới cảnh giới cực cao. Đại niết bàn trong niết bàn, chỉ chính là việc siêu thoát sinh tử luân hồi, không còn phiền não của chuyển thế khổ đau.”
“Ít nhất truyền thuyết hoả phượng của người Sở, không có liên quan tới Phật học, cũng không tồn tại cách nói ‘phượng hoàng niết bàn’.”
“Dục hoả trùng sinh, cụm từ này cũng vậy, chưa nghe nói bao giờ, cũng không có ghi chép. Đây là điển cố của đời sau à?”
Địch Kỳ Dã không ngờ lúc này còn chưa có truyền thuyết về phượng hoàng dục hoả trùng sinh, nghe xong giải thích của Cố Liệt, gật đầu nói: “Có lẽ là điển cố của đời sau, truyền thuyết khi phượng hoàng tròn năm trăm tuổi, sẽ tập hợp hương mộc dấy lên đống lửa hừng hực, nhảy vào lửa tự thiêu, sau đó lại trùng sinh từ đống tro tàn, từ ấy vĩnh sinh bất tử, thành chim bất tử.”
Truyền thuyết này nghe khá thú vị, dường như mang theo một loại mỹ cảm thê lương động lòng người, Cố Liệt cẩn thận phân tích, cúi đầu cười cười: “Trên đời này, nào có tấm thân bất tử.”
“Cho nên chỉ là truyền thuyết.”
Địch Kỳ Dã không rõ vì sao hắn lại cảm khái như vậy, cười thuận miệng đáp một câu, cuối cùng hỏi tới chuyện đứng đắn: “Nhóc ăn mày đó, Chủ Công tính an bài như thế nào?”
Nhà trúc dù sao vẫn đơn sơ, không có bao nhiêu đồ vật, Cố Liệt mặc thêm áo ngoài, ngồi xuống đuôi giường, hỏi ngược lại: “Địch tướng quân cho rằng, nên an bài như thế nào?”
Chủ Công đã ngồi xuống, hơn nữa không phải ngồi trên đài cao, như bình thường, theo lý Địch Kỳ Dã nên quỳ gối, nhưng hắn thật sự không muốn vừa mới tắm xong đã lại đi quỳ xuống đất, nên hắn giả bộ quên mất lễ tiết, còn nói câu thoái thác rất đường hoàng: “Ngài là quân, ta là thần, đương nhiên là ngài nói an bài thế nào, sẽ an bài thế đó rồi.”
Cố Liệt buồn cười: “Nếu ngươi đã tới hỏi, tức là đã có suy đoán, còn giả vờ cái gì.”
“Ngươi thật sự muốn nhận nuôi nó?” Địch Kỳ Dã quả thực đã có suy đoán, nhưng vẫn cứ kinh ngạc, “Đám Khương Dương sẽ không đồng ý.”
Nói xong, đại khái cảm thấy lời này của mình nói ra nghe không tốt lắm, lại bổ sung thêm: “Theo cách nói của các ngươi, là làm loạn đích trưởng.”
Cách nói của các ngươi?
Cố Liệt lắc đầu cười cười, bỗng nhiên quẹo đường: “Ta nói rồi, ngươi muốn hỏi chuyện gì, phải lấy một đổi một.”
Địch Kỳ Dã nhẹ rũ hàng mi dài, tròng mắt không an phận mà xoay chuyển, sau đó nhướng mày đáp: “Vậy ngươi hỏi đi.”
“Phượng hoàng mà ngươi biết, sẽ dục hoả trùng sinh,” Cố Liệt rồi lại nhắc tới câu chuyện ban nãy, ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú về phía Địch Kỳ Dã, “Vậy ta mà ngươi biết, lại được ghi chép như thế nào?”
Địch Kỳ Dã ngạc nhiên: “Sao ngươi”
“Sao ta biết?”
Cố Liệt ngắt lời cướp đi câu nói của Địch Kỳ Dã, giải thích: “Đêm đó ở tẩm điện, ta suy đoán ra năm nay ngươi mười chín, lúc ấy ta từng nói, đời này ngươi mở mắt ở nơi đây, đã là tám tuổi, sau đó sống trong sơn cốc mười một năm. Ngươi từng nói trên đường đi ngươi nhờ bác gái ở một cửa hàng chải đầu giúp ngươi, nói cách khác, sau khi rời núi ngươi chưa từng chậm trễ, mà nhắm thẳng tới Sở quân.”
“Những suy đoán ấy, ngươi đều chưa từng phản bác, có phải vậy không?”
Địch Kỳ Dã nghiền ngẫm mà nhìn Cố Liệt, cũng không phủ nhận: “Đúng thì sao?”
“Như vậy, ngươi tất nhiên đã biết ta từ khi còn ở ‘thời đại của ngươi’, nếu không, làm sao ngươi chạy thẳng tới Sở quân được?”
Địch Kỳ Dã hỏi lại: “Chẳng lẽ không thể là lúc ta đi trên đường, nghe thấy uy danh hoả phượng sát thần, lòng hướng tới, nên mới nảy sinh ý định nhất thời à?”
Cố Liệt suýt nữa cười phá lên, quả quyết nói: “Núi Thanh Thành ở Tần Châu, lúc ấy vẫn đang bị tứ đại danh phiệt âm thầm chiếm cứ. Ngươi từ Tần Châu đi vào đất Thục, người gặp được ở dọc đường đều là con dân của Yến Triều, ngươi chỉ có thể nghe đến máu điên man Sở của ta cùng hung cực ác như thế nào, làm gì có ai sẽ gọi ta là hoả phượng sát thần?”
Nữ nhi Liễu gia sinh ra trong tứ đại danh phiệt, mưa dầm thấm đất, chưa từng gặp mặt, đã có thể coi hắn như rắn rết.
“Còn nữa, Địch Kỳ Dã, chẳng lẽ ngươi không biết ngươi xoi mói quá mức tới cỡ nào à?”
Địch Kỳ Dã vốn đang vô cùng bội phục lập luận của Cố Liệt, nghe câu cuối cùng, lập tức bắt đầu không phục: “Ta xoi mói quá mức chỗ nào?”
Cố Liệt vạch trần không chút lưu tình: “Ngươi tuỳ hứng làm bậy, quen thói tự cho mình là cường giả. Yêu sạch quá mức, không nguyện ý khoan nhượng cho tì vết.”
“Thiên hạ ba phần, ngươi lựa chọn lấy ta là chủ, hẳn là bởi so với Bắc Yến và Phong Tộc, ta xuất binh có danh, trị quân có đạo, không có bất cứ khuyết điểm gì mà ngươi không thể chịu được.”
“Khi gặp nhau tại Thục Châu, ngươi đã nói, lý tưởng của ngươi là tới cống hiến cho minh chủ, chinh chiến thiên hạ. Mà ta, chẳng qua là lựa chọn tốt nhất để ngươi thực hiện lý tưởng mà thôi.”
Địch Kỳ Dã theo bản năng lập tức cãi lại: “Không đúng.”
Vẻ mặt Cố Liệt không tin.
“Thôi được rồi, đại khái đều đúng, Chủ Công thiệt là mưu trí song tuyệt,” Địch Kỳ Dã tò mò nhìn Cố Liệt, nhếch môi cười, “Nhưng không phải chỉ là lựa chọn tốt nhất.”
Hắn cường điệu: “Mà là lựa chọn duy nhất.”
“Cổ kim có biết bao hào kiệt, duy độc Chủ Công ngươi hợp với nhãn duyên của ta,” Địch Kỳ Dã da mặt dày dõng dạc, “Đây là duyên phận quân thần. Ta là tuệ nhãn thức anh hùng.”
Hoa ngôn xảo ngữ.
Cố Liệt giương mắt đi xem gương mặt dày kia, nhưng Địch Kỳ Dã không xấu hổ chút nào, vẫn dáng vẻ tiêu sái rất đương nhiên, ngược lại khiến Cố Liệt xem tới không tính tình.
Địch Kỳ Dã hỏi lại: “Câu hỏi của ta là về nhóc ăn mày, sao ngươi đột nhiên lại nói về chuyện này?”
“Ta mà ngươi biết, được ghi chép như thế nào?”
“Cái này……”
Bút mực của văn nhân như đao kiếm, lễ nghi đại thống sâu nặng, kiếp trước Cố Liệt phế Liễu vương hậu, tiểu thái tử chết trong lãnh cung, bị thư sinh chọc vào cột sống mắng: “Hổ độc còn không thực tử, vậy mà hoả phượng chẳng thể dung thân,” nói hắn trời sinh tính đã máu lạnh, chỉ biết trị quốc.
Thậm chí có người còn nói, Sở Cố không phải vong vì Bạo Yến, mà là vong trong tay Cố Liệt —— đây là bình luận ác độc đâm vào tim, khoét tận xương đến nhường nào.
Khi Cố Liệt tại vị, đây chính là sai lầm duy nhất đáng bị bắt lấy của hắn, đương nhiên hắn cũng chưa bao giờ ngăn chặn những tiếng nói phê bình. Sách sử đời sau sẽ viết như thế nào, hắn đã chuẩn bị tinh thần, trái phải gì đều trốn không thoát cái lời bình vô tình.
Địch Kỳ Dã chau mày, cẩn thận nói: “Sách sử mà ta đọc bị tàn khuyết, không được đầy đủ, không có ghi chép về hậu cung của Chủ Công. Cũng chỉ có duy nhất một câu đánh giá, nói rằng ‘Sở tổ, minh quân. Biết nhìn người, giỏi dùng người, mưu sâu tính rộng. Vô tư vô tình, tài đế vương trời sinh.’, ngoại trừ câu này, có thêm một số chiến báo, còn đâu phần lớn là do ta dựng lại mô phỏng rồi phỏng đoán ra.”
Quả nhiên, vô tư vô tình.
Cố Liệt nhắm mắt, sau đó ngẫm lại, chợt thấy buồn cười, lẩm bẩm tự nói: “Ngươi đoán tới, ta đoán đi.”
Còn hao tâm tốn sức hơn cả đánh trận.
Địch Kỳ Dã lại rớt một lớp áo choàng, chuốt lại mấy câu vừa rồi, cũng thấy buồn cười: “Vòng vo lắt léo theo Chủ Công nửa ngày, rốt cuộc muốn nói gì?”
Lúc này Cố Liệt mới nói: “Bổn vương năm nay hai mươi tám, nếu có thể bình định thiên hạ trong vòng hai ba năm, đến lúc đó xưng đế, cũng chưa quá ba mươi.”
“Khi ấy, tất nhiên quần thần sẽ cùng thượng gián, muốn bổn vương cưới vợ nạp thiếp, tuyển tú nữ vào cung.”
Địch Kỳ Dã đáp đương nhiên: “Không phải luôn như vậy sao?”
Đăng cơ lập quốc, quảng nạp hậu cung, kéo dài tử tự, mượn sức trọng thần, phàm là khai quốc chi quân, có ai không phải như vậy.
Cố Liệt thản nhiên đánh cho Địch Kỳ Dã một đòn không kịp trở tay: “Nhưng bổn vương ghét thân cận với người khác.”
Ánh mắt Địch Kỳ Dã không chịu khống chế mà dịch dịch xuống dưới, chần chừ xung quanh vạt áo tơ lụa không nhìn ra được gì kia.
“Bổn vương không có bệnh kín,” Cố Liệt nghiến răng thanh minh.
“Tâm bệnh mà thôi.”
Đủ loại bất kham của kiếp trước, vương hậu tác loạn hạ độc, ngoại thích tôn thất cố ý loạn triều, còn có dạ tức hương nùng liệt đến đau triệt tâm can phế phủ một đêm ấy, hiện giờ nhắc tới, chẳng qua cũng chỉ là bốn chữ ngắn ngủi mà thôi.
Giữa đôi mày hắn tích tụ u sầu, giống như đã một mình khiêng lên gánh nặng lâu lắm lâu lắm, gánh nặng đó lại ngày một nặng hơn, đến khi sắp không thể khiêng nổi nữa, trên khuôn mặt ấy rốt cuộc để lộ ra những mỏi mệt nặng nề.
“Có cái này, chỉ là hỏi chút thôi,” Địch Kỳ Dã ho khan một tiếng, lại lôi tin đồn nhảm nhí về hai người ra nói, cố ý đùa giỡn cho Cố Liệt vui vẻ, “Chủ Công ngài ghét thân cận với người khác, vậy mà lại cấm túc mạt tướng ở thiên điện, chắc sẽ không, có ý với mạt tướng đấy chứ?”
Cố Liệt bị hắn tức cười: “Ta ngại mình chết chưa đủ nhanh chắc?!”
“Hứ,” Địch Kỳ Dã túm lấy cơ hội trả lại nguyên lời nói ghét bỏ mà Cố Liệt từng cho hắn, “Ngài nói chuyện cũng quá không biết kiêng kỵ.”
Hồ nháo.
Cuối cùng vẫn bị Địch Kỳ Dã trêu chọc thả lỏng nỗi lòng, Cố Liệt nói tiếp: “Cho dù bổn vương không có tâm bệnh, hoặc có lẽ vài năm nữa, bổn vương sẽ chữa khỏi tâm bệnh này, cưới vợ sinh con, lập trữ quân. Ngươi có biết, thái tử của khai quốc chi quân, phần lớn là kết cục gì không?”
Nói vậy tức là phần lớn không có kết cục gì tốt.
“Xét đến cùng, bổn vương vẫn còn quá trẻ, nếu tuổi đã gần năm mươi, dù tâm bệnh có khó chữa, vì xã tắc của Đại Sở, bổn vương nhất định cũng sẽ cưới vợ sinh con, cho quần thần một đáp án thoả đáng.”
Đây là kiểu quan niệm yêu đương gì vậy, Địch Kỳ Dã âm thầm nhướng mày.
Cố Liệt thu lại sự yếu lòng, tự giễu nói: “Coi như bổn vương tuỳ hứng một lần đi.”
“Nhưng đám Khương Dương……”
Cố Liệt mặt không đổi sắc mà bịa chuyện: “Khi bổn vương còn niên thiếu từng gặp gỡ hậu nhân của Công Tử Lịch, cầm lòng không đậu, nàng sinh một đứa con trai, cùng đứa bé quay về Thanh Giản ẩn cư. Không ngờ vô tình phát hiện chân tướng cái chết của Công Tử Lịch năm đó, bị gia phó Cao Vọng sát hại. Bổn vương nhận được truyền thư, cùng Địch tướng quân tới chậm một bước, nhưng may mắn vẫn cứu được ấu tử của bổn vương.”
Lần này, dù Địch Kỳ Dã không phải cổ nhân, cũng bị hoảng sợ quá chừng vì lá gan to đại của Cố Liệt.
“Ngươi muốn cho đứa ăn mày này một thân phận vương tử chân chính? Nếu vậy nó sẽ là trưởng tử danh chính ngôn thuận của ngươi đấy!”
“Ta muốn diệt trừ Trung Châu Cố, không có trưởng tử trong tay, động thủ thế nào?”
Địch Kỳ Dã nghi hoặc, tuy Trung Châu Cố hành sự ngu xuẩn, mắc ói, nhưng đã đắc tội Cố Liệt đến mức này sao? Hắn phản bác theo bản năng: “Dù vậy cũng không cần……”
Cố Liệt lại hỏi rất thoải mái: “Ngươi cảm thấy đứa nhỏ này không tốt sao?”
“Đây nào phải vấn đề ta thấy có tốt hay không đâu,” Địch Kỳ Dã cảm nhận được sự bất đắc dĩ hiếm có khi đối mặt với Cố Liệt, “Ta còn không phải người của thời đại này, không thèm để ý tới đích trưởng, dù ngươi nhường ngôi cho hiền tài nào đó có thể kéo dài thịnh thế của Đại Sở, ta cũng không lời nào để nói. Thằng bé này là một đứa trẻ tốt ngàn dặm mới tìm được một, nếu bồi dưỡng chu đáo, tương lai tất sẽ thành châu báu. Nhưng trừ phi ngươi nói rõ ngươi sẽ tước đoạt quyền thừa kế của nó, nếu không, sau này khi ngươi có đích tử, mặc dù nó biết nhớ ơn, không tranh không đoạt, chẳng lẽ đích tử của ngươi cũng sẽ không tranh không đoạt sao?”
“Vậy đoạt đi.”
Địch Kỳ Dã lần thứ hai kinh ngạc mà nhìn Cố Liệt.
Hắn nói gì cơ?
“Vậy đoạt đi,” Cố Liệt bình tĩnh lặp lại.
Tần mạnh hai đời đã vong, Hán mạnh Lữ Hậu đoạt chính. Hài tử của hắn, hài tử của người khác, có gì khác nhau. Năm đó huynh đệ cùng họ Cố, cùng tìm được đường sống trong chỗ chết như hắn đó, đã mất đi sinh mệnh vì hình xăm hoả phượng.
Ai có thế chắc chắn nếu đứa bé ấy còn sống, sẽ làm kém hơn hắn?
Trước sau hắn vẫn luôn cảm thấy, hắn chẳng qua là một kẻ sống sót cõng trên lưng mệnh đồ của Sở Cố mà thôi.
Như vậy, tranh đi, đoạt đi, ai xuất sắc nhất, ai có khả năng kéo dài thịnh thế của Đại Sở, sẽ là người có thể ngồi lên long toạ chí cao vô thượng kia.
Hắn làm hết thảy đều vì phục hưng Đại Sở, con nối dõi của hắn cũng không ngoại lệ.
Đời này, hắn sẽ không xa cầu có được vợ cả con yêu, cứ coi như hắn bị rắn cắn một lần sợ dây thừng mười năm, dứt khoát buông tay đánh cuộc một lần.
So với đám con cháu tầm thường của Trung Châu Cố, nhóc ăn mày tính từ gốc, cũng đã thắng được rất nhiều.
Địch Kỳ Dã bỗng cười rộ lên: “Chủ Công, ngươi nói ta điên, ngươi cũng không kém cạnh.”
Địch Kỳ Dã thở dài, cuối cùng vẫn khuyên nhủ: “Thế nhưng người đều sẽ đổi thay, chờ nó lớn lên tuổi trẻ khoẻ mạnh, làm sao biết lòng dạ nó sẽ không bắt đầu muốn thay thế ngươi?”
Cố Liệt lại cười: “Giả như nó có thể cướp được giang sơn từ trong tay ngươi ta, bổn vương còn có cái gì cần phải lo lắng về sau nữa? Bổn vương chết cũng không tiếc.”
Kiếp trước khi hắn sắp lâm chung, chỉ có khoái ý nhẹ nhàng, không có nửa phần lưu luyến không buông.
…… Người này.
“Đáng giá sao?” Địch Kỳ Dã nghĩ tới cuộc đời của Cố Liệt, không tự giác nắm chặt Thanh Long Đao, thấp giọng hỏi: “Ngươi vì Đại Sở, trả giá tất cả những gì mình có. Đáng giá sao?”
Bị dưỡng phụ dạy dỗ mất hết thú vui sở thích với cuộc sống, còn bị hại đến mức không thể thân cận với người khác, khó có được ái nhân và hài tử.
Đem thần hồn, thể xác và tinh thần tươi sống của mình đều châm thành ngọn lửa, thiêu sạch huyết hải thâm thù, thiêu tới cuối cùng chỉ còn lại một nắm tro, vẫn muốn vốc nó đi đắp vào hòn đá tảng kê nên Đại Sở.
Chẳng lẽ người này mệnh trung chú định phải gió rét căm căm, không thể có một chút ấm áp nào sao?
Đáng giá sao?
Nhưng Cố Liệt được hỏi một đằng lại trả lời một nẻo.
Hắn nói: “Không oán…… Không hối.”
Địch Kỳ Dã ngơ ngẩn mà nhìn hắn, yên lặng mất tiếng.
Bỗng nhiên, ánh mắt Địch Kỳ Dã rung lên, duỗi ngón tay ấn lên môi, ý bảo Cố Liệt đừng phát ra tiếng động.
Hắn thả nhẹ bước chân đi đến cạnh cửa, nhìn xuyên qua khe hở tấm trúc, chỉ thấy nhóc ăn mày tay chân nhẹ nhàng kéo đệm chăn tới, trải ra phòng khách nhỏ bên sườn của nhà trúc, giống như một gã sai vặt gác đêm, dựa vào tường ngủ, trên mặt đất đặt một chiếc đèn dầu hơi tối.
Trên mặt nó hình như có nước mắt.
Nghĩ tới hẳn là vì biến cố đến quá đột nhiên, ban đêm nó bị sợ hãi, không dám ngủ một mình, muốn được ở gần người lớn một chút, nhưng lại không dám quấy rầy Cố Liệt, nên mới ngủ ở phòng khách nhỏ.
Địch Kỳ Dã nhớ tới chuyện vừa bàn với Chủ Công, không biết đối với nhóc ăn mày này là phúc hay hoạ, đáy lòng thở dài.
Địch Kỳ Dã quay đầu lại, nhìn về phía Cố Liệt.
Sao mà trong nhà ngoài nhà, đều là trẻ em thành thật đáng thương quá thể thế này.
Không có cách nào thân cận với người khác ư?
“Là nhóc ăn mày.” Địch Kỳ Dã dùng khẩu hình trả lời.
“Chủ Công,” Địch Kỳ Dã tuỳ tiện đặt Thanh Long Đao xuống bên cạnh Tử Sương Kiếm, nhỏ giọng nói, “Ban ngày vội vã tìm ngài ăn cơm, chỉ kịp dọn dẹp ra một gian nhà ở, mạt tướng cả gan, tá túc một đêm nha.”
Lời này nghe đến lửa giận vốn đã êm êm trong lòng Cố Liệt lại thổi phừng lên, còn không biết xấu hổ nói vội tìm ta ăn cơm?
Địch Kỳ Dã không coi mình là người ngoài, cởi áo ngoài, nằm một cái chiếm hết nửa bên giường, còn rất vô lại định cứ thế đi ngủ.
Cố Liệt cố gắng mãi mới ngủ được.
Trong ánh sáng ấm áp của ngọn đèn dầu tối tăm, Cố Liệt rơi vào giấc mộng, nhưng chân mày vẫn nhíu thật chặt.
Địch Kỳ Dã mở mắt ra, quan sát Chủ Công của hắn.
Thật là đáng thương.
Nghe quân y nói, dạ tức hương có thể trị đau đầu, còn có tác dụng yên giấc.
Địch Kỳ Dã cắn vỡ ngón tay, nhỏ không sót một giọt máu nào lên chiếc khăn lụa sạch, rồi dịch nó đến bên gối đầu của Cố Liệt.
Hắn không ngửi thấy được mùi hương bạc hà, nhưng hắn nhìn thấy được Cố Liệt từng chút từng chút, thả lỏng đôi lông mày nhíu chặt.
Vì thế Địch Kỳ Dã yên tâm đi ngủ.