Ma Vực Lâu Lan là tên tập 2 của bộ sách Mê Tông Chi Quốc, bộ tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm dài kỳ, của tác giả được ca ngợi là nhà văn có trí tưởng tượng phong phú bậc nhất trong dòng văn học thám hiểm, kinh dị Trung Quốc - Thiên Hạ Bá Xướng . Anh là tác giả của bộ truyện 'Ma Thổi Đèn' - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc, chỉ sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung.
Nhân vật chính trong Mê Tông Chi Quốc là đội thám hiểm gồm Tư Mã Khôi, Hải ngọng và những người bạn. Họ vào núi Dã Nhân, nhận nhiệm vụ tìm kiếm một bảo vật thần bí chôn sâu dưới lòng đất, và từ đó mở ra cuộc phiêu lưu kỳ lạ, đầy mạo hiểm với đường ranh sinh tử vô cùng mỏng manh.
Câu chuyện bắt đầu bằng một cơn bão nhiệt đới sắp đổ bộ, một con đường u linh đã sớm bị người đời lãng quên, một chiếc bóng máy bay ma mị, một tổ chức thần bí như người tàng hình, tất cả đã hé mở cánh cửa di tích của một nền văn minh cổ đại sớm bị cát bụi khỏa lấp. Trong màn sương mù giữa núi sâu vùng Bắc Miến, nơi không một người nào bước vào mà còn sống sót trở về, ẩn náu bao sinh vật vừa đáng sợ vừa kỳ lạ chưa từng được biết đến như: thần mãng xà khổng lồ, đỉa Campuchia ăn thịt người, rồng Komodo đầy dịch độc, rắn bay nuốt chửng sinh mệnh mai phục trong sương, cổ sinh vật phun khói đặc... và cả tòa thành cổ của vương triều Chăm Pa vùi sâu dưới lòng đất với hàng loạt ẩn số lịch sử bị che đậy từ bao năm... Vào khoảnh khắc đội thám hiểm tiếp cận được bảo vật, thì một chiếc bóng bỗng dưng xuất hiện, hắn từng bước dẫn đội thám hiểm vào vùng đất cấm bị nguyền rủa ngàn năm...
Cuộc phiêu lưu thứ hai mở ra, khi đội thám hiểm của Tư Mã Khôi chấp nhận trở thành đội quân cảm tử thâm nhập lòng đất, để tìm hiểu những bí mật về 'kính viễn vọng Lopnor' do Liên Xô đào từ năm 1958. Tại đây họ ngẫu nhiên biết được những bí mật về cực vực Lâu Lan thần bí mà các nhà khảo cổ không dám công khai. Nơi đó cơ hồ là tận cùng của thế giới, nơi thời gian ngưng tụ, người chết sống lại, người mà không phải người... Khi đội thám hiểm thoát khỏi vòng hiểm nguy thì lại sa chân vào một vòng hiểm nguy khác đáng sợ hơn. Họ rơi vào chiếc hộp thời gian, nơi đó họ gặp một người đáng lẽ đã chết từ 5 năm trước và Tư Mã Khôi đã lỡ miệng tiết lộ một 'thiên cơ' lẽ ra không được phép tiết lộ... Họ phát hiện ra một nền văn minh còn cổ xưa hơn cả nền văn minh Chăm Pa, một đất nước còn cổ đại hơn cả Lâu Lan, một thần vật khiến người ta coi trọng hơn cả báu vật...
Bằng những câu chuyện tràn đầy sóng gió bão táp với những bí kíp cổ xưa, những di tích thần bí, bằng tình bạn cảm động giữa những người đồng đội sẵn sàng sống chết vì nhau và sự cảm nhận sinh tử vô thường, bằng ngôn ngữ hài hước tinh tế, những kiến thức dân gian phong phú nhiều màu sắc, Mê Tông Chi Quốc đã thu hút độc giả từ những chi tiết đầu tiên cho đến những dòng chữ cuối cùng. Tác giả Thiên Hạ Bá Xướng đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thần bí trong văn hóa phương Đông và những khái niệm văn hóa hiện đại của nhiều nơi trên thế giới trong tác phẩm của mình, phong cách đó không chỉ làm nên điểm độc đáo cho Mê Tông Chi Quốc mà còn tạo cho tác giả một 'cõi giang hồ' riêng biệt.Chương 1 - Nhiễu động thời trong
Hồi thứ nhất: Tá thanh hoàn hồn (1)
Xuồng cao su luẩn quẩn lượn trong sương mù mấy vòng, nhiên liệu của động cơ dần dần cạn kiệt, nhưng tứ bề vẫn mênh mông nước, mặt nước đen ngòm im lìm không chút động tĩnh, màn sương khí sâu hun hút dường như trải dài vô tận.
Trong dải sương lạnh mênh mang ấy, bốn người ngồi trên xuồng nhưng không thể nhìn thấy gương mặt đối phương mặc dù ở ngay sát cạnh. Cảm giác mất phương hướng khiến mọi người đều sợ tái mặt, đang định nghĩ cách thoát hiểm, thì Tuyệt đột nhiên nói: “Ở đây cơ bản không hề tồn tại phương hướng, bởi vì bản thân sương mù đã là điểm cuối.”
Tư Mã Khôi hiểu điểm cuối mà Tuyệt muốn ám chỉ, có lẽ mang hàm ý cái chết, nhưng sao cô lại nói vậy?
(1) Tá thanh hoàn hồn: mượn âm thanh để hoàn hồn, người chết không nhìn thấy xác mà chỉ có âm thanh vọng tới người sống.
Hay nơi sâu trong đám sương mù rộng không bờ bến này, chính là vương quốc của thần chết mà các truyền thuyết Chăm Pa đã nhiều lần nhắc đến?
Tuyệt đưa cho Tư Mã Khôi chiếc máy điện đàm không dây đang cầm trong tay, rồi nói: “Từ lúc xuồng bắt đầu đi vào sương mù, cái máy bộ đàm này lại thu được loạt tín hiệu lai lịch không rõ ràng.”
Tư Mã Khôi cầm lầy chiếc máy từ tay Tuyệt, vừa nghe cô kể lại chuyện xảy ra lúc trước, mới biết trong lúc mọi người bổ sung trang thiết bị lần thứ nhất, Ngọc Phi Yến tìm thấy một máy bộ đàm chiến thuật không dây hiệu PRS 25/77 do Mỹ sản xuất trong chiếc Rắn đen II của đội thám hiểm Anh. Tuy ở sâu trong huyệt động cách biệt với thế giới bên ngoài, thì vật này không có chút tác dụng gì, nhưng Ngọc Phi Yến lại sợ sau khi thoát khỏi núi Dã Nhân, giữa biển cây rừng ngút ngàn mênh mông, nếu không có phương liên lạc xin cứu viện, thì e rằng cả hội cũng khó lòng đi qua nổi. Bởi vậy, bất kể hoàn cảnh gian nan đến đâu, cô vẫn cương quyết giữ chiếc máy bên mình. Có điều lúc khí mêtan bốc cháy, vỏ hộp ngoài cũng bị hư hỏng khá nặng, nên nó luôn ở trong trạng thái mở và không tắt được, chẳng biết pin còn có thể duy trì được bao lâu.
Mãi đến khi mọi người trèo lên xuồng cao su, Ngọc Phi Yến mới dỡ xuống đặt bên cạnh mình. Tuyệt nghe thấy có tiếng phát ra từ chiếc máy điện đàm, hơn nữa bất kể thay đổi tần số thế nào, cũng chỉ thu được những tạp âm như thể nó được phát ra từ thế giới bên kia. Có lẽ chiếc máy điện đàm này trước đây đã bị người ta cố ý cải tiến chức năng, nó không được sử dụng để thu phát những tín hiệu thông thường, mà chỉ đặc biệt thu nhận một tần số duy nhất – tần số u hồn.
Tuyệt nhớ lại lúc mọi người bị trượt xuống đáy khe núi, bất ngờ bị sương mù dày đặc bủa vây hoàn toàn, đúng lúc nguy cấp đó thì Nấm mồ xanh dùng sóng điện và tín hiệu pháo sáng dẫn đường cho mọi người đi vào đường hầm bụng rắn, nhờ vậy cả hội mới tạm thời thoát hiểm.
Nhưng khi hội Tư Mã Khôi chạm trán Nấm mồ xanh, thì phát hiện đối phương không hề mang theo máy điện đàm, hơn nữa hắn ta cũng nói rõ chỉ sử dụng tín hiệu pháo sáng để liên lạc, giờ nghĩ lại mới thấy tình hình hiện tại vô cùng bất thường.
Tư Mã Khôi đặt ống nghe áp sát tai, chỉ nghe thấy trong đó phát ra những tạp âm “xè xè xè”, lẫn cả những tiếng nói không rõ ràng, như thể giọng của linh hồn đen tối đang lởn vởn trong sương lạnh tự lẩm bẩm một mình. Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng khó hiểu, liền hỏi Tuyệt: “Cô có nghe được họ nói gì trong đó không?”
Tuyệt lo lắng bảo: “Tôi cũng không hiểu lắm, hình như đối phương muốn nói với chúng ta, trong sương mù không có phương hướng…”, cô nhíu mày nghĩ một lát, rồi nói tiếp: “Lúc không có sương mù, thì tín hiệu hoàn toàn rơi vào trạng thái tĩnh lặng, nhưng chỉ cần xung quanh xuất hiện sương khí, thì sóng điện mang tạp âm lại dần dần trở nên rõ ràng hơn, không hiểu sao lại như vậy được?” Hải ngọng nói chen vào: “Cái máy rách này theo chân chúng ta lúc rơi lúc đập, bị hành hạ đến khổ, không chừng ốc vít hỏng hết cả, cũng có thể là do một âm hồn mất đầu nào đấy không thể siêu thoát nổi ám vào nó, dù sao nó đã muốn kêu thì cứ mặc cho nó kêu đi, chúng ta để ý làm gì. Chỉ cần trong lòng ta tự coi mình là ông nội, thì vạn sự chỉ là lũ cháu chắt cả thôi.”
Tư Mã Khôi cho rằng tuy lai lịch của tín hiệu này rất quái dị, nhưng chắc không phải do Nấm mồ xanh phát ra, bỏi vì hắn ta không mang theo máy điện đàm trên người, ngoài ra, nếu hắn có thể liên lạc với mọi người thông qua sóng điện thì chắc chắn sẽ không mạo hiểm lộ diện và phơi bày thân thế của mình. Có thể trong sương mù còn tồn tại một vật gì khác nữa, vả lại tín hiệu chưa hẳn đã phát ra từ một chiếc máy điện đàm khác.
Tư Mã Khôi không dám khinh suất. Anh bảo Hải ngọng tập trung tinh thần giương súng cảnh giới, giữ chặt đèn trước xuồng, chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó cùng Tuyệt cẩn thận nghe lại giọng nói phát ra từ chiếc máy điện đàm thêm một lần nữa.
Ngọc Phi Yến đứng bên cạnh hỏi Tư Mã Khôi: “Anh bảo trong sương mù còn tồn tại một vật khác, nhưng Udumbara sản sinh ra sương mù dưới lòng đất đã bị khí mêtan thiêu cháy hoàn toàn, vả lại ở nơi có nước chăc chắn sẽ không có sương mù, vậy tại sao sương khí gân đây càng lúc lại càng dày đặc hơn? Và sóng điện trong sương mù phát ra từ đâu vậy?”
Tư Mã Khôi suy đoán: “Đây là khí ẩm phát sinh do nước tù trong lòng hồ ngầm quá sâu tạo nên, có lẽ nó không giống với sương mù do Udumbara sản sinh.”
Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe anh Thiết Đông kể lại một vài chuyện liên quan đến thông tin liên lạc, anh lại nói với Ngọc Phi Yến: “Tôi chỉ biết, trong chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ có sử dụng một loại máy điện đàm không dây có tính năng rất ưu việt, công suất cực cao, có thể mang theo bên mình, đồng thời còn lắp đặt hệ thống cộng hưởng băng tần kép, sử dụng được ở cả những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất; sau khi cải tiến ống nghe, nó không chỉ thu được tất cả tần số như địa sóng, thiên sóng, thậm chí trong một vài điều kiện đặc thù, nó còn có thể thu được… những giọng nói vốn dĩ không thuộc về thế giới này.”
Ngọc Phi Yến không xa lạ với thông tin vừa được nghe, bởi vì lòng đất có khả năng hấp thụ sóng điện từ rất mạnh, cho nên ngay từ đầu những năm năm mươi, các nhà khoa học Mỹ đã lợi dụng địa sóng để tiến hành liên lạc với vong hồn những người đã khuất, có điều sau đó có thành công hay không thì cô không được biết. Lẽ nào tạp âm mà chiếc máy điện đàm không dây thu được, lại đúng là lời thì thầm của những vong hồn trong sương mù? Tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa có phải là con đường dẫn đến vương quốc của tử thần không? Chẳng lẽ màn sương đen mênh mông này chính là chiếc bóng của đôi cánh thần chết hay sao?
Tư Mã Khôi biết vương quốc thần chết trong truyền thuyết Chăm Pa, đại khái cũng giống với thành hàm oan trong quan niệm của người Trung Quốc, nhưng chẳng ai rõ cõi u minh đó rốt cục có tồn tại hay không. Bởi vậy, nhất thời anh cũng khó lòng phán đoán tình hình hiện tại cả hội đang gặp phải là gì, chỉ có thể đặt ra giả thiết: “Nếu tín hiệu thần bí mà chiếc máy bộ đàm không dây thu nhận được, quả thực là u hồn trong sương mù mượn âm hoàn hồn, thì giờ đây chúng ta cũng chỉ còn cách tìm hiểu xem đối phương muốn truyền đạt thông tin gì, sau đó mới biết chính xác mình đang đổi đầu với ai.”
Bụng Hải ngọng rỗng tuếch khiến đầu óc anh càng thêm phần hoang mang, anh vừa soi đèn vào sâu trong đám sương mù quan sát, vừa lầu bầu khiến nước bọt bắn tung tóe cả lên: “Cái nơi khỉ ho cò gáy này, nước lặng sóng, người lặng tiếng, ngay cả hồn ma chết tiệt trong rừng sâu núi thẳm cũng ôm đầy một bụng oán hờn muốn tìm người giãi bày tâm sự. Nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, tôi phải nói vài câu mới được, người ta sống trên cõi đời, người sống chẳng phải chỉ nhiều hơn kẻ chết một hơi thở thôi sao? Chết thì đã chết rồi, có gì còn phải sợ nữa chứ? Dù sao vật chất không bao giờ mất đi, lúc đầu khi ở Miến Điện, chúng ta cũng đâu có dự định còn sống trở về. Nhưng ta đã bao nhiêu ngày nay chưa có gì bỏ vào bụng rồi hả? Ngay cả gà vịt thịt cá trông thế nào tôi cũng quên mẹ nó rồi, nếu phải chết thật thì cũng không thể để bụng rỗng thế này mà chết chứ?”
Tư Mã Khôi lắc đầu bảo, thức ăn thì không đào đâu ra, nhưng tôi có cách chữa đói rất hiệu nghiệm, ở Quan Đông người ta có câu nói thế này: “Đời người như cái cối xay, lăn ra nằm ngủ hết ngay đói thèm.”
Hải ngọng uể oải đáp: “Thế thì cậu mau tìm cho tôi một cái giường. Từ khi chạy sang Miến Điện đánh nhau đến giờ, không ngày nào được ngủ một giấc cho thật đẫy, đúng lúc tôi đang buồn ngủ rũ mắt ra đây. Người xưa nói quá chuẩn “Mất mẹ từ thuở lên ba, vẫn hơn canh bốn phải ra khỏi giường…”
Lúc này, Tuyệt “suỵt” một tiếng ra dấu cho mọi người chớ ồn ào, cô áp ống nghe vào tai rồi nói: “Âm thanh phát ra từ chiếc máy điện đàm càng lúc càng rõ hơn rồi đây này…”
Ngọc Phi Yến nhắc nhở Tuyệt: “Cô phải hỏi xem đối phương là ai trước đã, vị trí cụ thể bây giờ ở đâu?”
Tuyệt đang định liên lạc với đối phương theo ý Ngọc Phi Yến, nhưng đột nhiên Tuyệt nghe thấy động tĩnh đáng sợ gì đó phát ra từ ống nghe, mặt cô lộ rõ vẻ sợ hãi, rồi cô quẳng vội ống nghe đi như thể bị điện giật. Tuyệt kinh hoàng thì thầm: “Đúng là có ma thật đấy! Nó đang ở trên xuồng, mọi lời nói của chúng ta nó đều nghe thấy hết”.
Nghe Tuyệt nói mà mọi người bủn rủn toàn thân. Trên xuồng cao su làm gì có ai ngoài mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm? Xem ra trong sương mù quả thực tồn tại vật gì không sạch sẽ rồi đây,
nhưng nó lại vô hình vô ảnh, chỉ khi sử dụng máy điện đàm mới bắt được tần số u hồn đó, nếu không, cho dù vong hồn đứng lù lù ngay trước mắt, cả hội cũng không thể nào phát hiện ra.
Tư Mã Khôi ra hiệu cho Tuyệt đừng quá sợ hãi, trước tiên phải nghe hết toàn bộ nội dung của sóng điện u hồn, sau đó mới xác định được trên xuồng có ma hay không. “Yêu ma do người tạo ra, trong đại đa số trường hợp, những việc quái dị đều do con người tự nhào nặn mà thành. Nếu cô không tin, thì nó tự khắc không còn vẻ đáng sợ nữa.”
Tuy Tuyệt là người ngoài nhu trong cương, nhưng cô lại sợ ma nhất trên đời, có điều nhìn thấy Tư Mã Khôi vẫn ung dung điềm tĩnh, hơn nữa còn có ba người ngồi ngay cạnh bên, nên cũng vững dạ hơn vài phần. Cô hít sâu một hơi, nhặt chiếc ống nghe lên, cố gắng phân biệt giọng nói trong mớ tạp âm rối loạn.
“U hồn” vô hình vô ảnh, chỉ xuất hiện thông qua tạp âm sóng điện, dường như nó muốn kể cho mọi người đầu đuôi câu chuyện: Thời kỳ thực dân Anh đặt ách thống trị ở Miến Điện, bọn họ đã bỏ mấy chục năm trời để tìm kiếm tòa thành Nhện Vàng, mãi đến những năm bốn mươi, mới dần dần lần mò được chút manh mối, đồng thời phát hiện thêm một thông tin quan trọng: Dưới lòng đất có sương mù dày dặc do Udumbara tạo ra, chỉ có rắn bay mới vào được bên trong. Cùng lúc ấy, Miến Điện tuyên bố độc lập, quân Anh bắt đầu lũ lượt rút quân ra khỏi lãnh địa Miến Điện, tất cả tin tình báo có liên quan đến tòa thành Nhện Vàng đều rơi vào tay Nấm mồ xanh – kẻ có quan hệ rất mật thiết với quân đội Anh.
Nấm mồ xanh liền cử người lái chiếc tiêm kích vận tải do không quân Hoàng gia Anh cung cấp, chở bom địa chấn hạng nặng chứa đầy chất độc màu da cam, mạo hiếm bay vào khe sâu núi Dã Nhân trong điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Bọn họ hy vọng lần ra tay này có thế hủy diệt hệ thực vật rậm rạp sinh sống trong khe núi, nhưng do chuẩn bị không kỹ lưỡng, nên chuyển hành động đó cuối cùng phải hạ màn thất bại.
Nấm mồ xanh vẫn không nản lòng, hắn lại giở thủ đoạn mềm nắn rắn buông, lợi dụng và uy hiếp, giăng lưới thâu tóm một số chuyên gia khảo cổ và sinh vật có tiếng trong giới, tổ chức thành một đội thám hiểm khoa học, nằm vùng trường kỳ ở ngoại vi đề điều tra bức màn bí mật nằm sâu trong lòng khe sâu núi Dã Nhân, cuối cùng các ẩn số cũng dần dần được hé mở. Khoảng hơn một ngàn năm trước, quần thể núi Dã Nhân đã đứng nguy nga, sừng sững ở đó, chỉ thỉnh thoảng có con đại bàng khổng lồ xé mây lượn qua đỉnh núi, khiến màn sương tản ra, khi ấy mới có thể chiêm ngưỡng toàn bộ diện mạo tòa thành Nhện Vàng.
Mãi đến khi lòng núi sụt lún, vua Chăm Pa phát hiện ở dưới khe sâu có một khối núi đá đen xì, cấu tạo bên trong chẳng khác nào địa cung của loài kiến, bề ngoài trông rất giống với con nhện tám chân. Trong truyền thuyết cổ đại của người Chăm Pa, vương quốc dưới lòng đất của tử thần có kết cấu hình tháp, chân tháp có một con rắn khổng lồ bốn tay bốn chân quấn thành vòng tròn. Sau khi người ta chết đi, thể xác bị nó nuốt chửng, còn vong hồn sẽ đi xuyên qua đường hầm bụng rắn để luân hồi sang kiếp khác, bởi vậy tô tem tháp cổ có mãng xà quấn quanh mang hàm ý rất đáng sợ, nó đại diện cho sự kết thúc và cái chết.
Trong lòng tòa núi đá dưới lòng đất còn lưu lại vêt tích cư trú của con người, niên đại tồn tại còn cổ xưa hơn vương triều Chăm Pa rất nhiều, nhưng lịch sử lại không hề có bất kỳ ghi chép nào liên quan đến điều này, nên chỉ có thể suy đoán: có lẽ đại hồng thủy tràn xuống lòng đất là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự diệt vong cuối cùng của bộ lạc. Theo quan niệm cổ xưa của người Chăm Pa: “Thành quách ỉún xuống lòng đất là hiện tượng khí âm nuốt khí dương, là trời muốn diệt người”, bởi vậy họ tin rằng lòng núi sụt lún là điềm báo chẳng lành, cộng thêm trong màn sương mù kỳ dị như thể ảo ảnh thành phố, vua Chăm Pa tận mắt chứng kiến cảnh mình bị chết ngay trước cửa động chứa thi hài cổ xưa, nên ông ta cho nhân giống Udumbara trồng rộng khắp thành cổ, định dùng sương mù dày đặc khó lòng xuyên qua, để chôn giấu hoàn toàn bí mật khủng khiếp kia.
Udumbara là loài thực vật ngàn năm mới xuất hiện một lần, sương mù mà nó tạo ra, được hình thành do hàng triệu triệu vi sinh vật tự thân tồn tại trong đó tụ hợp lại. Bình thường, người ta chỉ thấy nó trong trạng thái bị khô hóa, nhưng Udumbara trong tòa thành Nhện Vàng lại có thể đâm chồi nảy lộc hết năm này qua năm khác mà không hề ngừng nghỉ. Nguyên nhân có thể là do địa cung vua Chăm Pa phát hiện thấy không phải là một tòa núi đá bình thường, mà là một loại vật chất đặc biệt còn sót lại dưới lòng đất từ thời hậu kỷ Devon(2) cách đây hơn bốn trăm triệu năm. Nó vừa là khoáng vật vừa là sinh vật, sở hữu nguồn từ tính nhiệt thừa sinh vật cực mạnh, nguồn lực từ này xung đột với lực hút Trái Đất, khiến những vùng xung quanh hình thành rất nhiều “vũng mù” lớn nhỏ khác nhau.
Những vũng mù giống như cạm bẫy tử thần, nó không phải dòng sông ngầm không có lối ra, như định nghĩa địa chất học thông thường, mà là hố xoáy sinh ra do xung đột cực từ, tác động mạnh mẽ đến cơ thể con người.
Một khi đã bước vào vũng mù, thì la bàn, kim chỉ nam và các thiết bị định vị điện tử đều bị nhiễu sóng nghiêm trọng, cảm giác phương hướng và trực giác của con người cũng trở nên hỗn loạn, giống như người ta bị bịt kín hai mắt, nên không thể đi theo một đường thẳng, vậy chỉ khi có thể bố trí một tuyến chỉ hướng đủ dài, mới có thể đảm bảo cho nhà thám hiểm đi xuyên qua vũng mù an toàn.
(2)Kỷ Devon: là một kỷ địa chất trong đại cổ Sinh. Kỷ Devon kéo dài từ khi kết thúc kỷ Silur vào khoảng 416,0 ± 2,8 triệu năm trước cho đến khi bắt đầu kỷ Than Đá, khoảng 359,2 ± 2,5 triệu năm trước.
Đội thám hiểm khoa học gọi địa cung trong lòng tòa thành Nhện Vàng là “di vật kỷ Devon”, đồng thời trong quá trình điều tra tình hình khe núi cho Nâm mô xanh, các chuyên gia vô tình phát hiện mục đích thật sự của tổ chức này, bọn họ căn bản không hề muốn đi tìm kho báu đã bị thất lạc tung tích của vua Chăm Pa.
Nếu theo truyền thuyết cổ xưa, thì tòa thành Nhện Vàng được hình dung như một con đường nối liền giữa hiện thực và hư vô, người sống tồn tại ở cõi thực, kẻ chết rơi xuống vùng hư vô. Như vậy bí mật đích thực mà Nâm mồ xanh tham vọng chạm đén, chính là vong hồn của vị thánh tăng đã bị vua Chăm Pa giết hại lúc sinh thời, và trầm luân trong vực thẳm hư vô hàng ngàn năm về trước.