Đàm Vân Sơn trông lên đỉnh núi, lồng ngực bỗng ấm lên.
“Trên núi là gì vậy?” Chàng hỏi.
Cô nương áo xanh trông lên theo chàng, cuối cùng bảo một tiếng “chờ” rồi xoay người đi về phía căn nhà bằng đá cách không xa.
Đàm Vân Sơn không hiểu là có chuyện gì, nhân lúc chờ, chàng cẩn thận tìm kiếm gì đó dưới đất.
Lúc cô nương áo xanh cầm một đốt tre trở lại thì thấy chàng đang cầm một viên đá sắc cạnh rạch lên tay mình. Đá dẫu sắc cũng vẫn thua xa dao cùn, cứa đường nào là trầy da tróc thịt đường ấy, máu me be bét, đâu còn phân biệt được nét dọc nét ngang gì nữa.
“Huynh làm gì vậy!” Cô nương áo xanh đứng nhìn thôi cũng thấy đau, nàng vội đi tới giữ chặt tay chàng lại, “Tôi còn rất nhiều đốt tre để không, huynh sợ quên thì cứ học khắc lên đốt tre giống tôi là được mà.”
“Đốt tre dễ làm rơi, chỉ cần lơ là một khắc là vứt nó đi đâu cũng không biết.” Đàm Vân Sơn cười, rút tay về, tiếp tục rạch, từng nét từng nét, những vết thương vừa khép miệng lại bị rạch ra, “Mang theo người là an toàn nhất, chỉ cần nó hơi mờ đi là tôi có thể rạch lại ngay, không sợ quên.”
Cô nương áo xanh thấy lòng khó tả quá, vừa cảm động vừa xót xa, không biết là vì cớ gì, nhưng rõ ràng là vậy.
“Ký… Linh…” Nàng nhìn vào những vết thương đỏ máu của đối phương, lần đầu tiên đọc hai chữ này thành tiếng, “Là tên người à?”
Cuối cùng Đàm Vân Sơn cũng rạch xong nét cuối cùng, chàng thở phào nhẹ nhõm, chỉ thấy yên tâm chứ chẳng hề biết đau: “Có lẽ vậy.”
Cô nương áo xanh thở dài: “Vậy ắt hẳn nàng rất quan trọng với huynh.”
Đàm Vân Sơn xắn tay áo cao thêm lên và cũng xắn cho chắc hơn để đảm bảo có thể nhìn thấy toàn bộ các chữ, dù có đi lại cũng sẽ không làm tay áo rơi xuống che mất.
Cô nương áo xanh lẳng lặng chờ chàng xong việc mới đưa đốt tre cho chàng: “Cho này.”
“Không cần, ghi lên cánh tay là được rồi.” Đàm Vân Sơn cho là đối phương vẫn khăng khăng muốn chàng khắc lên đốt tre nên không lấy.
Cô nương áo xanh dở khóc dở cười đáp: “Nhìn cho kỹ đi, đây là cái tôi đã khắc.” Nàng dúi đốt tre vào tay Đàm Vân Sơn, “Vừa nãy không phải huynh mới hỏi trên núi là thứ gì sao, đó, nó có viết đó.”
Đốt tre dài chừng gang tay đã chặt được một thời gian nên không còn xanh tươi nhưng lại thêm phần giản dị, mộc mạc, trên khúc tre có khắc mấy hàng chữ nhỏ xinh ngay ngắn: đầu ngày, trên đỉnh núi bỗng xuất hiện một cái cây, cao như chiếc lọng, nở ra hoa lưu ly, là cảnh đẹp lớn ở chốn này.
“Bỗng nhiên xuất hiện một cái cây?” Đàm Vân Sơn không hiểu tại sao chàng lại quan tâm mấy chữ này, có lẽ là vì dù là cao như lọng hay hoa lưu ly thì giờ chàng đều có thể thấy, chỉ có cái “lai lịch” này là không nên mới thu hút sự chú ý.
“Đúng, là bỗng nhiên xuất hiện.” Cô nương áo xanh lấy lại đốt tre, cẩn thận sờ những dòng chữ trên đó, chạm lên quá khứ nàng vất vả lắm mới lưu giữ được, “Đỉnh núi vốn không có gì bỗng mọc lên một cái cây tỏa sáng.”
Đàm Vân Sơn càng nghe càng tò mò: “Chuyện đấy là từ lúc nào?”
Cô nương áo xanh: “Ba mươi bảy ngày trước.”
Đáp trôi chảy đến độ làm Đàm Vân Sơn phải giật mình: “Nhớ rõ vậy cơ à?”
Nàng đến là bất lực, biểu cảm như muốn nói “nói với huynh nãy giờ đúng là phí lời”: “Ngày nào tôi cũng khắc một đốt tre, đếm thôi thì có gì khó?”
Đàm Vân Sơn hiểu ra, ngại ngùng gãi mũi rồi lại hỏi: “Sau đó thì sao, cái cây đó vẫn ở mãi trên đỉnh núi thế à? Ngày nào cũng tỏa ánh sáng lưu ly vậy hả?”
Không ngờ cô nương ấy lại lắc đầu: “Lúc tôi đếm ba mươi sáu đốt tre về sau thì phát hiện ra, bất kể hôm đó đã ghi chép được những chuyện gì thì câu cuối cùng luôn là cây vẫn còn, không nở hoa.”
Đàm Vân Sơn suy đoán: “Nói cách khác, cái cây đó đã ở trên đỉnh núi ba mươi bảy ngày nhưng chỉ mới tỏa ra ánh sáng lưu ly hai lần?”
“Ừ.” Cô nương áo xanh gật đầu nhưng nghĩ rồi lại không dám nói quá chắc, dù sao thì “trí nhớ” chính là thứ kém đáng tin nhất nên mới bổ sung thêm một câu: “Chắc là vậy.”
Đàm Vân Sơn không còn gì muốn hỏi nhưng cảm giác thắc mắc không có lời giải trong lòng lại càng thêm khó chịu, giống như có ai đang hò hét trong đầu không cho chàng được yên.
“Tôi muốn tới đó.” Cuối cùng, chàng nghiêm nghị nói từng chữ.
Cô nương áo xanh ngạc nhiên, nghiêm túc hỏi: “Vì sao?”
Ngày nào nàng cũng đứng đây trông về phía đó nhưng chưa bao giờ sinh lòng tò mò muốn tìm hiểu tường tận ngọn ngành.
“Không biết.” Đàm Vân Sơn vẫn trông lên đỉnh núi không dời mắt, đôi mắt phản xạ ánh sáng sáng ngời, “Chẳng qua là muốn đi.”
“Muốn tới mức nào?”
“Không đi không được.”
Ở nơi chim hót hoa thơm này, người ta nói chuyện thoải mái tự nhiên với nhau, điều huynh ta muốn tuy nàng không hiểu nhưng nàng thấy ánh sáng trong đôi mắt huynh ta còn nóng bỏng chói ngời hơn cả ánh sáng trên đỉnh núi.
“Tiếc quá, tôi còn muốn chơi cờ với huynh.” Nàng thở dài, tuy nói “tiếc quá” nhưng ý tại ngôn ngoại là “tiễn biệt”.
Đàm Vân Sơn cười nói: “Đến chừng tôi từ đỉnh núi đi xuống thì chắc chắn là vẫn đi ngang nơi này.”
Cô nương áo xanh lắc đầu: “Khi đó huynh đã quên chuyện hôm nay rồi.”
“Không phải cô nương có ghi vào đốt tre đó sao,” Đàm Vân Sơn cúi đầu nhìn con chữ trên mặt trong cánh tay, nửa như tiếp lời cô nương áo xanh, nửa như tự nói một mình, “chỉ cần có một người nhớ là được rồi.”
Lá rụng xuống suối trôi xa theo dòng.
Bóng lưng đi về phía núi mờ dần cho đến tận khi khuất hẳn khỏi tầm mắt, vẫn có thể cảm nhận được ý chí kiên định của người ra đi.
Ở nơi trời đất phần nhiều là an nhàn thảnh thơi này, sự cố chấp của người này thật nổi trội.
Nổi trội, làm người ta thấy hâm mộ.
Cô nương áo xanh trở lại bên bàn đá, thu lại quân cờ trắng đối phương đã đặt.
Thế cờ vẫn nguyên, thong thả chờ người hữu duyên tiếp theo.
…
Đàm Vân Sơn đi đến sắp chuột rút bắp chân, cuối cùng cũng đến được chân núi, không ngờ ngẩng đầu lên lại không nhìn thấy được đỉnh núi.
Chàng mệt quá rồi nhưng chàng không muốn dừng lại chút nào. Sau một hồi không tìm được đường lên núi, chàng bỏ cuộc không tìm nữa, cứ thế gạt đám cây rừng xông thẳng lên núi!
Mặt trời lặn, mặt trăng lên.
Rồi mặt trăng lặn, mặt trời lên.
Nơi này cũng có mặt trăng, mặt trời ư? Trong lúc leo núi, Đàm Vân Sơn vẩn vơ nghĩ.
Nhưng nếu đáng ra nó không ở đây thì nó ở đâu? Đàm Vân Sơn không nghĩ ra, lại còn bị cả núi vấn đề này tiếp vấn đề kia làm phiền, thế là chàng không buồn nghĩ nữa, chỉ chuyên tâm leo núi.
May là ánh sáng lưu ly vẫn đang còn. Ban ngày, nó óng ánh trong veo, đêm đến, nó rực rỡ đẹp tuyệt vời, chiếu xuyên qua tầng tầng lớp lớp tán cây rừng xua bớt cái hiu quạnh tối tăm của núi rừng.
Cuối cùng Đàm Vân Sơn cũng đi một mạch lên được tới đỉnh!
Trời đã sáng rõ, gió hiu hiu thổi lướt nhẹ qua mặt.
Cái cây đó mọc ở chính giữa đỉnh núi, dáng cao và thẳng, cành lá sum suê, tựa như một bậc bề trên đứng sừng sững trên đỉnh núi che chở từng tấc đất mà ánh sáng tỏa tới.
Đằng sau gốc cây có một gian nhà tranh, lúc ở xa không nhìn thấy nó, có lẽ là vì bị vướng tầm nhìn.
Có nhà thì hẳn phải có người.
Đàm Vân Sơn nuốt nước bọt, bỗng dưng cảm thấy căng thẳng vô cớ.
Rõ ràng là chàng lên đây tìm cái cây nhưng mắt chàng lại cứ dính chặt vào gian nhà cỏ không dứt ra được, rồi chẳng mấy, đến đôi chân cũng không nghe chàng sai bảo, cứ thế bước từng bước tới gần căn nhà.
Cuối cùng, chàng đã bước đến ngay trước cửa nhà. Gọi là cửa nhưng thực ra cũng chỉ là một đống cỏ khô dựng thẳng lên.
Đàm Vân Sơn ngừng thở, rón rén chuyển đống cỏ khô đi, nôn nóng muốn thăm dò xem bên trong thế nào.
Có bàn, có giường, nhưng không có người.
Đàm Vân Sơn thất vọng, tựa như thứ mình mong đợi đã lâu bỗng tan vỡ, cảm giác căng thẳng và thấp thỏm trong lòng cũng trở nên sa sút.
Chàng ỉu xìu đi ra ngoài, xoay người lại ôm đống cỏ khô định che cửa lại cho ngôi nhà, bỗng nhiên, chàng nhác thấy thứ gì đó sắc lạnh!
Chàng lập tức xoay ngược người lại, ôm đống cỏ khô che chắn!
Đâu có ngờ được, mặc dù người đó cầm dao găm nhưng không hề định đâm chàng mà lại xô cả chàng lẫn cỏ khô vào trong gian nhà tranh!
Vừa bị xô ngã xuống, Đàm Vân Sơn lập tức lần tay sờ xuống cẳng chân, thậm chí chính chàng cũng không biết tại sao mình lại sờ xuống đó nhưng cuối cùng rốt cuộc chàng cũng chẳng lấy được món vũ khí phòng thân nào thì đã bị người ta đè lên cả cỏ khô lẫn người.
Đối phương là một cô nương, xét về thân hình thì căn bản không thể đè được chàng, nếu như người ta không có thêm một con dao găm để kề lên cổ chàng.
“Lén lút làm gì đấy!” Giọng cô nàng véo von, ngoại hình cũng rất ưa nhìn, nhất là cặp mắt vừa sáng mà lại còn trong veo, dù là “đe dọa” thì cũng không hề thấy có chút vẻ gì là nguy hiểm, ngược lại lại trông đến là đáng yêu.
“Tôi lên đây tìm cái cây…” Đàm Vân Sơn thành khẩn khai báo, nhưng dù có ăn ngay nói thật thì cũng không ảnh hưởng gì tới chuyện chàng tính kế.
Cô nương nhíu mày, mất tập trung, con dao găm kề cổ hơi nới ra: “Tìm cây à? Tìm cây thì vào nhà làm gì…”
Thời cơ Đàm Vân Sơn chờ đã đến rồi!
Chàng không thích bị người ta kề dao vào cổ, dù là một cô nương ưa nhìn cũng không được.
Đống cỏ khô bất ngờ bị hất ngược lên, Đàm Vân Sơn xô cô nương đó ra đồng thời thuận thế đứng dậy, đổi bị động thành chủ động, lật ngược tình thế!
Chuyện đầu tiên chàng làm để ngăn chặn đối phương là cướp lấy con dao!
Không ngờ chàng chỉ vừa vươn tay ra thì đã bị người ta giữ chặt lấy cổ tay, chẳng biết là bị cô nương đó bấm phải huyệt nào mà mấy ngón tay nhấn mạnh một cái, toàn thân chàng liền vừa đau vừa tê dại, không động đậy nổi.
Cô nương liếc chàng một cái đầy khinh bỉ, ung dung đứng dậy, đập một phát vào gáy chàng, đưa ra một đánh giá đầy chân tình về tình huống vừa rồi: “Giảo hoạt.”
Cuối cùng Đàm Vân Sơn cũng bình thường trở lại, chàng cố gắng đứng dậy, ôm lại đống cỏ khô vào lòng, chân thành đáp: “Hay là coi như chưa từng có chuyện gì xảy ra nhé? Tôi cam đoan cô có kề dao vào tôi nữa, tôi cũng tuyệt đối không đánh trả, không cãi trả.”
Chàng không thích bị người ta kề dao vào cổ, dù là một cô nương ưa nhìn cũng không được. À, nhưng nếu là một người võ nghệ cực kỳ cao cường thì lại là chuyện khác.
Cô nương ngẩn ra như thể không ngờ nổi chàng lại thoải mái nhận thua như thế.
Đàm Vân Sơn cảm nhận được một cách sâu sắc khả năng có thể hòa dịu được cục diện bèn nói tiếp ngay: “Tôi thực sự là đi theo ánh sáng tới đây chỉ muốn xem thử xem cái cây này là thế nào mà lại tỏa sáng. Sau đó, tôi thấy ở đây không chỉ có cây mà còn có một mái nhà tranh nên tôi mới muốn nhìn thử nhà tranh một chút xem sao…”
Cô nương nghe chàng nói lảm nhảm một hồi thì cảm thấy câu nào câu nấy của chàng cũng đều như đang chế nhạo mình, thế là nàng tức giận đáp: “Thân thủ của huynh chỉ có vậy, còn chạy lung tung khắp nơi làm cái gì thế…” Nàng bỗng ngừng lời, bước tới ngồi xuống cạnh chàng, xắn cao tay áo chàng lên, tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên: “Tôi làm huynh bị thương à?!”
Chàng dở khóc dở cười nhìn cánh tay chằng chịt những vết thương cũ mới đan xen, vội giải thích cho nàng hiểu: “Không can gì cô đâu, là tự tôi lấy đá rạch đấy.”
Từ hôm qua tới sáng nay, ngoại trừ leo núi, chàng vẫn luôn liên tục hồi ức những chuyện xảy ra lúc gặp cô nương áo xanh, chốc chốc lại rạch lại mấy chỗ ở cánh tay. Chàng không muốn lại quên nữa nên chỉ có thể liên tục bắt mình phải “đọc thuộc lòng”, cô nương áo xanh ghi mọi chuyện lên đốt tre, còn chàng thì muốn tạc chúng vào cơ thể.
May mà không có nhiều chuyện phải nhớ, lại cũng chỉ mới xảy ra hôm qua nên chàng vẫn còn có thể nhớ được.
“Huynh thật là kỳ quặc.” Cô nương nhíu mày, lần đầu nghiêm túc quan sát chàng, “Nơi này nguy hiểm như thế, chỉ với võ nghệ của huynh, có tự bảo vệ được mình không còn khó nói, lại còn tự đi rạch vào người mình. Huynh chê cuộc sống quá dễ dàng đấy à?”
“Nơi này… nguy hiểm hả?” Đàm Vân Sơn nhìn ra trời xanh xanh cây xanh xanh bên ngoài qua cửa nhà đã không còn gì che chắn, hoài nghi mình và đối phương không ở cùng một chỗ.
Cô nương thở dài, ra vẻ ông cụ non “từng trải”: “Huynh chớ thấy nơi này non xanh nước biếc mà nhầm, kỳ thực có rất nhiều yêu ác, lần trước tôi tỉnh dậy đã gặp một con, nếu không phải tôi phản ứng nhanh thì đã bị nó ăn mất rồi.”
“Lần trước?” Đàm Vân Sơn nghiền ngẫm hai chữ này, giật nảy mình, “Cô nương nhớ được chuyện ở đây à?”
“Đúng vậy,” cô nương đáp tự nhiên như muốn nói chuyện này có gì mà lạ, “Lần trước tôi chỉ tỉnh được một khoảng thời gian ngắn, vừa đánh xong con yêu quái kia thì tôi đã lại thiếp đi, lần này thức được lâu, suốt từ qua đến giờ không hề thấy buồn ngủ!”
Nói tới đoạn cuối, mặt mày nàng rạng rỡ hẳn lên, rõ ràng rất vui vì “không hề thấy buồn ngủ”, vui hơn hẳn chuyện “đánh xong yêu quái”.
Đàm Vân Sơn không hiểu ngủ hay không ngủ thì có gì to tát, chàng bật người đứng dậy, vẫn ôm khư khư đống cỏ khô, có nó làm chàng gia tăng cảm giác an toàn gấp bội: “Những chuyện khác thì sao, ngoài chuyện có yêu quái thì còn gì khác nữa không? Đây là đâu? Cô nương là ai? Vì sao chúng tôi đều quên mà cô nương lại không? Ký Linh, cô nương từng nghe thấy cái tên Ký Linh này chưa?”
Cô nương ngơ ra trước một loạt câu hỏi, mất một lúc lâu mới xấu hổ gãi đầu đáp: “Không biết, cả thảy tôi mới tỉnh lại có hai lần, tôi chỉ nhớ những chuyện xảy ra lúc tôi tỉnh, những chuyện trước đây và chuyện trong lúc ngủ tôi đều không biết.”
Đàm Vân Sơn ôm đầu, nói không chừng cô nương này còn không biết nhiều chuyện bằng chàng.
“Ồ?”
Đang buồn bực thì Đàm Vân Sơn nghe thấy đối phương ồ lên ngạc nhiên, chàng ngẩng đầu lên xem, thấy đối phương đang nhìn vào thắt lưng chàng với vẻ mặt kinh ngạc.
Thế là chàng cũng cúi đầu nhìn theo, ở hông chàng có cột một sợi thừng vàng tía.
Hôm qua cô nương áo xanh có hỏi nó là gì, lúc đó chàng không trả lời được, giờ chắc chắn chàng cũng vẫn không trả lời được. Chàng nhún vai, đang định nói “đừng hỏi tôi, tôi cũng không biết” thì đối phương đã lên tiếng nói trước:
“Cái này tôi cũng có…”
Phen này đến lượt Đàm Vân Sơn kinh ngạc.
Không, hẳn là hai người nhìn nhau, cùng không hiểu gì như nhau.
Cô nương phản ứng nhanh hơn chàng, hoàn hồn đứng dậy đi tìm kiếm trong đống đồ lặt vặt trong phòng, chẳng mấy liền tìm thấy mấy đoạn thừng vàng tía dài ngắn không đều nhau, mang cho Đàm Vân Sơn xem: “Huynh xem này, có phải là giống nhau không?”
Cuối cùng Đàm Vân Sơn cũng chịu bỏ đống cỏ khô xuống, nhận đoạn dây thừng nàng đưa cho, lật qua lật lại xem thử, xem xong lại để vào gần thắt lưng của mình để đối chiếu, cuối cùng không thể không thừa nhận: “Đúng là giống thật.”
“Sợi thừng trên lưng huynh là ở đâu ra?” Thấy chuyện lạ lùng, tất nhiên là cô nương phải hỏi.
“Tôi không biết, lúc tôi phát hiện ra nó thì nó đã ở sẵn trên người tôi rồi.” Đàm Vân Sơn ăn ngay nói thật, sau đó ôm hy vọng gặp may hỏi lại, “Cô nương thì sao?”
Thật không ngờ đối phương lại nhớ được thật: “Không phải tôi đã kể huynh nghe lần đầu tiên tỉnh lại tôi đã xử một con yêu quái đấy sao, xử nó xong, tôi cực kỳ mệt, nhưng đang định ngủ thì bỗng thấy có thứ gì đó vô cùng quen thuộc đang ở rất gần, không chỉ quen thuộc mà thứ đó còn đang gặp nguy hiểm, tôi liền xin nó giúp tôi cứu thứ đó tới đây, không ngờ lại chỉ thấy có mấy đoạn dây thừng, tôi còn tưởng là ai cơ…”
“Xin nó nào?” Đàm Vân Sơn nhìn ngó khắp xung quanh nhưng không phát hiện ra người thứ ba.
Cô nương kéo chàng ra khỏi nhà, chỉ tay vào thân cây đại thụ nãy giờ vẫn đang tỏa ra ánh sáng, mỉm cười bảo: “Nó đó.”
Đàm Vân Sơn nhìn cái cây đó rồi lại nhìn ánh mắt đầy tự hào của nàng ấy, bỗng nhiên không biết nên hỏi thế nào.
Dường như hiểu được sự bối rối của chàng, cô nương đi tới dưới gốc cây, vỗ nhẹ lên thân cây, ngẩng đầu nói: “Huynh chớ có xem thường nó. Nó là cây thần đấy. Chính nó đã dựng gian cỏ tranh kia cho tôi, giúp tôi nhặt dây thừng vàng tía này về. Nó cũng phát hiện ra con yêu quái kia trước nhất đấy!”
Tuy chàng vẫn chẳng hiểu gì nhưng người ta đã nói vậy rồi, chàng cũng không thể phản bác được… Khoan, Đàm Vân Sơn ngớ ra, bấy giờ chàng mới nghĩ ra một vấn đề, buột miệng gọi: “Cô nương…”
Bỗng dưng bị gọi một tiếng, nàng giật mình quay đầu nhìn lại: “Gì?”
Đàm Vân Sơn tháo sợi thừng cột ở lưng mình ra cho nàng xem: “Mấy đoạn dây thừng vàng tía đó của cô nương với cái của tôi phải chăng là cùng một sợi thừng?”
Cô nương dưới tàng cây thất thần nhìn chăm chăm vào sợi thừng trong tay chàng cứ như thể chàng nói chuyện gì đó khó hiểu lắm.
Đàm Vân Sơn bèn đi luôn tới, lấy hết mấy sợi thừng nàng đang cầm: “Tất cả đây sao?”
Cô nương gật đầu.
Đàm Vân Sơn ngồi xuống nền đất, một tay cầm đoạn dây thừng đứt, một tay cầm đoạn dây thừng của mình, lần lượt đối chiếu từng cái một xem thử xem chỗ đứt có khớp nhau hay không.
Cả thảy chỉ có vài sợi, đối chiếu không mất bao nhiêu thời gian.
Nhưng so đến đoạn cuối cùng, chàng lại ngồi im không nhúc nhích.
Cô nương ngồi xổm xuống, thấp thỏm hồi hộp hỏi: “Đúng thật à?”
Chàng chầm chậm ngẩng đầu lên, mãi sau mới nhè nhẹ lắc đầu: “Không phải…”
Cô nương lườm chàng một cái, muốn đánh quá: “Vậy huynh ngồi im tỏ vẻ nghiêm trọng thế làm gì!”
Lòng chàng buồn bực, vừa thất vọng lại thêm không cam lòng: “Sao lại không giống được nhỉ? Cô nương có dây thừng vàng tía, tôi cũng có dây thừng vàng tía, thứ này sao có thể phổ biến như thế được.”
“Sao không thể,” cô nương lấy lại mấy đoạn thừng đứt bị chàng vần vò nãy giờ về, “chẳng phải chỉ là một sợi thừng thôi sao, huynh biết làm thì người khác không biết làm à?”
Đàm Vân Sơn vẫn chưa chịu thôi, chàng đưa luôn sợi thừng vàng tía của mình cho nàng: “Vậy cô nương thử cảm nhận xem cái của tôi có gì quen không?”
Cô nương thở dài, chịu phục sự cố chấp của chàng, nhận lấy sợi thừng, nhắm mắt tập trung, cẩn thận cảm nhận.
Đàm Vân Sơn nín thở, sợ thở mạnh quá làm phiền đối phương.
Cuối cùng cô nương mở mắt ra, trả lại sợi dây thừng: “Hoàn toàn không.”
Đàm Vân Sơn sụp hai vai xuống, không hỏi thêm gì nữa.
Cô nương thấy chàng thất vọng thì hơi thương nhưng lại không biết phải động viên chàng thế nào, mãi một hồi mới thai nghén ra được một câu: “Tuy võ nghệ của huynh chẳng ra làm sao nhưng phong thái… phong thái rất nhã nhặn!”
Câu khích lệ này không chỉ nhạt nhẽo mà còn rất gượng gạo.
Đàm Vân Sơn lại thấy nghe rất lọt tai, mặc dù chàng vẫn thấy buồn nhưng cũng đã chịu cười: “Sao cô nương biết?”
“Chẳng qua là… khụ, cảm giác.” Cô nương ấp úng đáp, vội vàng đánh trống lảng, “Này, huynh có muốn trọ lại đây không?”
Đàm Vân Sơn rất đỗi bất ngờ: “Gì?”
“Võ nghệ của huynh tệ như thế, dưới chân núi lại nguy hiểm như vậy, tốt hơn hết là ở lại đỉnh núi này đi,” cô nương chân thành nói, “nó có thể bảo vệ được cho huynh, tôi cũng không phải lần nào tỉnh dậy cũng chỉ có một mình, tuy rằng tôi cũng chỉ mới tỉnh chưa bao lâu nhưng lúc nào cũng một mình thì cũng buồn.”
Đàm Vân Sơn cười: “Vậy lúc cô nương ngủ chẳng phải là chỉ còn lại một mình tôi hay sao, cô không buồn chứ tôi thì sao?”
Cô nương chớp chớp mắt như thể vốn không nghĩ tới chuyện đó, cuối cùng nàng thở dài: “Được thôi, vậy tôi một mình cũng được.”
Nàng xin lỗi quá chân thành thành thử lại làm Đàm Vân Sơn thấy áy náy, chàng vội giải thích: “Thực ra không phải do buồn hay không mà tôi không ở lại đây được là vì tôi muốn đi tìm Ký Linh.”
“Ký Linh?” Cô nương ngơ ngác hỏi, “Người? Yêu? Vật?”
“Chắc có lẽ là người,” Đàm Vân Sơn trả lời không mấy tự tin, chàng cười buồn buồn, “thực ra tôi cũng không chắc.”
“Có người nhớ tới mình thật là tuyệt…” Cô nương thờ dàng khe khẽ, có điều, chẳng mấy nàng đã xốc lại tinh thần, lấy con dao găm ra!
Đàm Vân Sơn vừa nhìn thấy con dao sáng loáng liền thấy cổ mình lành lạnh, không ngờ đối phương lại đưa con dao găm cho chàng.
“Tặng cho huynh.”
“Cho tôi à?” Đàm Vân Sơn không hiểu dụng ý, không dám nhận.
Cô nương lườm chàng một cái: “Để huynh phòng thân. Chẳng lẽ huynh định đánh tay không với yêu quái tiếp?”
Đàm Vân Sơn giật mình, bỗng thấy ấm lòng, chàng vội nói: “Đa tạ, nhưng thực sự không cần. Tôi có dao riêng rồi.”
Cô nương nhìn chàng từ trên xuống dưới một hồi: “Giấu đâu rồi?”
Đàm Vân Sơn ngẩn người, bấy giờ chàng mới nhận ra mình vừa nói gì.
Chàng có dao ư? Không, trong trí nhớ chàng không có chuyện đó, nhưng dường như trong đầu vẫn còn lưu lại vết tích gì đó về chuyện này nên ban nãy lúc “bất hòa” với cô nương này, chàng cũng từng sờ xuống muốn lấy con dao, nếu như nhớ không lầm…
Đàm Vân Sơn cúi đầu nhìn chân mình.
Hai bên cẳng chân chàng đếu có quấn xà cạp, các vòng vải cột chặt ống quần lại cho tiện di chuyển, chuyện này cũng bình thường thôi, nhưng một trong hai cái lại có quấn thêm một cái vỏ dao, nhìn kỹ thì nhận ra có vẻ là để cất dao bếp nhưng giờ trong đó không có dao, chiếc vỏ dao rỗng không.
*xà cạp:
20200707123150723
Cô nương cũng nhìn thấy cái vỏ dao không trong xà cạp của chàng, không ngờ đúng là chàng có dao thật, có điều nhìn mặt chàng thế này thì nàng cũng đoán ra được rồi: “Làm mất rồi à?”
Đầu Đàm Vân Sơn trống rỗng, không hề nhớ gì về chuyện này.
“Được rồi, dùng cái của tôi đi, lần này nhớ cột chắc thêm chút nữa.” Cô nương nói rồi nhìn quanh khắp nơi như muốn tìm gì đó, miệng còn lẩm bẩm, “Tôi làm cho huynh cái bao đựng…”
Người ta nhiệt tình như vậy, chàng cũng không tiện cứ từ chối mãi, lại thêm võ nghệ của chàng đúng là không ổn, Đàm Vân Sơn không khách sáo nữa.
Cô nương nói là làm, nhanh gọn bện cho chàng một cái vỏ đựng dao tuy không kín lắm nhưng rất thực dụng, bện rất chắc, trông có vẻ còn chắc hơn cái chàng đang cột ở chân.
Nói cảm ơn nữa thì khách sáo quá, Đàm Vân Sơn cởi xà cạp, định bỏ cái vỏ cũ ra thay bằng cái mới.
Dải vải quân vừa được tháo ra, vỏ dao liền rơi “cạch” xuống, nhưng ngoài trừ vỏ dao còn có một món đồ nho nhỏ rơi “keng” xuống đất.
Đàm Vân Sơn không biết là thứ gì, chàng cúi xuống nhặt, không ngờ còn có người nhanh tay hơn chàng.
“Sao lại có cái chuông thế này?” Cô nương cầm chuông nhìn ngó mấy cái rồi bỗng cầm nó gõ nhẹ một cái vào đầu chàng, nghe thấy nó kêu leng keng thì cười đầy nghịch ngợm, “Nghe cũng khá hay.”
Đàm Vân Sơn đờ người, cả người lặng đi.
Cô nương nhìn chàng đăm đăm, mới đầu là thắc mắc, sau chuyển sang bối rối, không biết nên làm gì, trong lúc cuống quýt, nàng đưa tay lên lau mặt cho chàng: “Tôi có đập huynh đâu, đừng khóc mà…”
Còn chưa nói xong, nàng đã bị người ta ôm chặt.