Gác kinh viện sách
Sớm khuya, Kiều làm công việc hầu hạ của một đứa thị tỳ ở chốn dinh thự cao sang. Một hôm trông thấy mặt Kiều ủ rũ, Hoạn Thư lên tiếng tra hỏi. Kiều lựa lời giải thích:
- Sở dĩ con có nét mặt rầu rĩ là tại vì con đang nghĩ tới số phận không may của mình.
Hoạn Thư nói với Thúc Sinh:
- Em nhờ anh điều tra giúp em về trường hợp con Hoa Nô này. Anh bảo nó khai cho thật tình đi nhé.
Thúc Sinh đang khổ đau cực kỳ, gan ruột chàng đã tan nát như đang bị bào ra, thế mà chàng cũng giả bộ bày cách tra hỏi Kiều. Một mặt chàng đã chẳng dám nói sự thật với vợ, một mặt khác chàng lại chẳng nỡ nhìn cảnh Kiều bị đày đọa. Chàng chỉ sợ làm liên lụy đến Kiều để cho Kiều lại bị hành hạ thêm. Được Thúc Sinh hỏi, Kiều quỳ trước sân hoa dâng lên một tờ cung khai về thân phận nàng. Thúc nhận lấy tờ khai và trao cho Hoạn Thư. Đọc xong tờ cung khai của Kiều, trong lòng Hoạn Thư dường như có phát sinh ít nhiều thương xót. Nàng trao tờ cung lại cho Thúc Sinh:
- Xét tờ cung khai này thì tình Hoa Nô cũng đáng thương, mà tài Hoa Nô cũng đáng trọng. Nếu con này mà có số phận giàu sang thì với tài sắc đó, có thể cũng sẽ có người đúc được một chiếc nhà vàng cho nó ở. Nhưng số phận nó lại là số phận hữu tài mà vô duyên. Thật cũng đáng thương cho số kiếp long đong của nó trong biển trần chìm nổi.
Thúc Sinh nói:
- Đúng như lời hiền thê đã nói. Kiếp số má hồng phận mỏng từ xưa tới nay luôn luôn là thế. Vậy thì em cũng nên đem lòng từ bi mà đối xử nhẹ tay với nó một chút.
Tiểu thư nói:
- Trong tờ cung khai này, Hoa Nô có ý muốn xin đi xuất gia. Có lẽ ta cũng nên chấp nhận lời yêu cầu này của nó, để nó có cơ hội bước ra khỏi cái vòng hệ lụy. Trong vườn nhà ta có gác Quan Âm, có cây trăm thước, có hoa bốn mùa, có cả cổ thụ, có cả sơn hồ; thôi ta hãy cho nó xuống tóc ra đó giữ chùa và chép kinh.
Một buổi sáng nọ trời mới rạng đông, mọi người chuẩn bị hoa hương và năm thức cúng dường để đưa Kiều ra trước Phật đường làm lễ xuất gia. Kiều được cởi chiếc áo xanh của người thị tỳ ra và mặc vào chiếc áo nâu sồng của một ni cô. Nàng được đặt pháp danh là Trạc Tuyền. Tiểu thư họ Hoạn cung cấp đầy đủ các phí tổn về dầu đèn, trầm hương và cử hai tên thị nữ khác tên là Xuân và Thu để phụ tá cho sư cô mới trong việc hương đèn và bái sám.
Từ khi được ra ở Quan Âm Các ngoài vườn hoa, có những lúc Kiều có cảm tưởng như là đã được lánh xa cõi bụi hồng của nhân gian và tới gần với rừng trúc tím của đức Quan Âm bồ tát. Nghĩ cho kỹ, nàng thấy nàng không còn hy vọng gì nữa về cuộc tình duyên với Thúc Sinh. Cầu cho đừng bị nhục trong cảnh thẹn phấn tủi hồng đã là may mắn lắm rồi. Ở chốn Phật đường ni cô Trạc Tuyền tìm mọi cách để vùi lấp thảm sầu, nàng cố quên đi những niềm tủi và những nỗi hờn của mình bằng cách chép kinh và tụng niệm. Nghĩ ra thì giọt nước cành dương của đức Quan Âm cũng có công năng tưới tắt những ngọn lửa phiền não đang bừng cháy trong lòng. Từ khi Kiều mặc vào chiếc áo nâu sồng của người tu, thấm thoát mà mấy mùa trăng đã đi qua. Sống ở chốn cửa thiền thì theo nguyên tắc phải giữ gìn giới luật và uy nghi cho nghiêm mật. Nhưng đó chỉ là vấn đề hình thức. Khi có mặt người bổn đạo lui tới thì sư cô Trạc Tuyền vẫn nói vẫn cười, nhưng khi vắng người, sư cô vẫn thường rơi lệ khóc than cho thân phận. Thật là oái oăm. Phía bên này thì Kiều ở trên gác kinh, phía bên kia thì Thúc Sinh ngồi trong viện sách. Tuy ở gần nhau trong gang tấc mà cả hai đều cảm thấy bị xa cách nhau đến ngàn trùng núi sông.