Thì ra hôm ấy sau khi huynh đệ bọn họ hồi phủ, Quốc Công phu nhân khóc đến hôn mê bất tỉnh ở linh đường, được đỡ về hậu viện nghỉ ngơi.
Quốc công phu nhân yêu thương đứa con trai này đến mức nào trong kinh không ai mà không biết, giờ lại rơi vào cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh, đau khổ không lời nào kể hết, chuyện này cũng không có gì là lạ.
Việt Quốc Công oán hận bà ta không biết dạy con, đích tử đang yên đang lành bị bà ta nuôi thành phế vật bất tài vô năng, dốt văn dốt nốt cả võ, nay người đã mất, lại nhớ tới bao nhiêu huyết mạch của mình chôn dưới tay Thượng Quan Thị suốt mấy năm qua, hận càng thêm hận, lạnh mặt ra lệnh hạ nhân đưa phu nhân về hậu viện, Việt Quốc Công có phản ứng như vậy cũng là chuyện bình thường.
Chẳng là vào thời điểm đưa tang, quan tài vừa được khiêng ra khỏi phủ, đội ngũ đưa tang chuẩn bị xuất phát tới cổng thành, bên trắc môn bỗng đâu xuất hiện một phụ nhân vận bạch y, gương mặt dữ tợn, tóc tai hỗn loạn, sau lưng còn có một đám nha hoàn ma ma hối hả đuổi theo.
Phụ nhân này không phải ai xa lạ, chính là chủ mẫu của phủ Quốc Công – Thượng Quan Thị mới ngất xỉu cách đó không lâu.
Mọi người nhận ra chủ mẫu của phủ, nhất thời không ai dám cản lại, Thượng Quan Thị nhào tới chụp lấy cổ áo Mạc Hoài Hiên, hai mắt đỏ ngầu, điên cuồng thét lên: “Là ngươi hại An nhi của ta, đồ nghiệt chướng nhà ngươi! Tiện chủng do tiện cơ sinh ra cũng dám vọng tưởng tranh đoạt gia sản với An nhi của ta, biết thế lúc xưa ta nên trừ khử tên nghiệt chướng ngươi và ả tiện nhân kia thì mọi chuyện đâu đến nông nỗi này! Là lỗi của ta, tất cả đều là lỗi của ta, nếu ta sớm hạ thủ, An nhi của ta sẽ không chết tức tưởi như vậy!”
Thượng Quan Thị lúc này chẳng còn sót lại chút tu dưỡng nào của một quý phụ thế gia, hệt như quỷ sát, vô cùng đáng sợ.
Thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi chau mày, giữ lại cổ tay đích mẫu, hạ giọng nói: “Mẫu thân, người mệt rồi, để hạ nhân đưa người trở về nghỉ ngơi thôi.”
Thượng Quan Thị không biết lấy đâu ra sức lực cực lớn, đẩy mạnh một cái, ép Mạc Hoài Hiên tới sát quan tài, sắc mặt âm u trùng trùng tử khí, trông như ác quỷ đang đòi mạng, gào lên: “Nghiệt chướng, ngươi có nghe thấy không, là An nhi của ta đang gọi ngươi đấy, nó gọi ngươi đến đền mạng cho nó, tên nghiệt chướng nhà ngươi mau xuống âm tào địa phủ bồi tội với An nhi của ta đi.!”
Mười ngón tay gầy còm của Thượng Quan Thị bóp chặt cổ Mạc Hoài Hiên, nhìn như mấy sợi dây quắt queo bám víu vào một nhánh chồi xanh yếu ớt, vừa siết vừa lắc, khuôn mặt Mạc Hoài Hiên đỏ bừng vì thiếu khí, cổ họng không phát ra nổi một âm thanh nào.
Biến cố xảy ra quá nhanh, chung quanh đều là các nhân vật lớn không thể đắc tội, hạ nhân trong phủ ba chân bốn cẳng lao tới cứu người, phủ Quốc Công xưa nay đặt chánh phòng lên trên hết, huống chi thân phận của Thượng Quan Thị vô cùng tôn quý, sau lưng bà ta là hoàng thất, ai dám động thủ với bà ta, vì vậy trong thời gian ngắn không cách gì cạy mở tay bà ta ra khỏi cổ người kế thừa duy nhất của phủ Quốc Công được.
Song Việt Quốc Công lại không mảy may kiêng nể, bước tới lôi Thượng Quan Thị ra, thô lỗ đẩy bà ta ngã xuống nền đất, hai nắm tay siết lại, đang thời khắc đưa tang cho trưởng tử, ả điên này lại làm ra chuyện mất mặt như vậy trước bao nhiêu người, sau này phủ Quốc Công làm sao còn chỗ đặt chân trong kinh thành nữa, lão làm sao đặt chân giữa triều đình, làm sao đối mặt với đồng liêu?
Việt Quốc Công ráng nuốt cơn giận xuống, quay đầu quát: “Một lũ vô tích sự, còn không mau đưa phu nhân về phòng, lẽ nào đợi đến khi nhị công tử bị hại các ngươi mới chịu động thủ?”
Hạ nhân khúm núm vâng dạ, tiến lên thỉnh Thượng Quan Thị trở về.
Thượng Quan Thị được dìu dậy, người ngượm chật vật, hai mắt dại ra, tròng mắt đột nhiên tóe ra sắc thái điên cuồng, giơ móng tay sắc nhọn chỉ thẳng vào Việt Quốc Công, kêu gào thảm thiết: “Thì ra… Thì ra các ngươi cùng một giuộc với nhau, An nhi của ta là do ngươi và ả tiện nhân kia liên thủ hại chết có đúng không!! Mạc Lộc Vinh, ngươi không phải là người, ngươi là súc sinh, không bằng cầm thú!”
Việt Quốc Công không thể chịu nổi mấy lời ô uế của bà ta nữa, nhấc chân đá lão quản gia đứng hầu bên cạnh, chửi ầm lên: “Còn không mau lôi ả đàn bà điên này đi, để ả ta nói xằng nói bậy tới khi nào?”
Quản gia bị đá té lăn một vòng trên nền đất, luống cuống đứng dậy, đến nước này lão cũng không còn thời gian e ngại thân phận của Thượng Quan Thị, mấy lời ghê gớm chết người như vậy mà cũng có thể phun ra khỏi miệng cho được, phu nhân đúng là nổi điên thật rồi, bèn vội vội vàng vàng sai người chặn miệng bà ta lại, nhanh chóng lôi người phụ nhân đang giương nanh múa vuốt đòi lấy mạng Việt Quốc Công vào phủ.
Sắc mặt Việt Quốc Công hết trắng lại xanh, quay đầu nhìn Mạc Hoài Hiên, giọng nói thốt ra đã nhuốm đầy mệt mỏi: “Sao rồi? Có sao không?”
Mạc Hoài Hiên cúi đầu đáp: “Hài nhi không có việc gì, đừng làm lỡ thời điểm lạc thổ của đại ca, chúng ta mau xuất phát thôi.”
Việt Quốc Công gật đầu, trong mắt chỉ còn lạnh lẽo, trưởng tử dù ham chơi bất tài nhưng dẫu sao cũng do một tay mình nuôi lớn, ả đàn bà điên kia lại thốt ra mấy lời mang nặng động cơ giết người như thế thật sự là khiến cho lòng người rét lạnh. Cũng may trời cao có mắt, nhân từ để lại cho Mạc gia một tia huyết mạch.
Việt Quốc Công vỗ lên mu bàn tay con trai thứ, giọng run run: “Sau này, phủ Quốc Công chỉ còn trông cậy vào phụ tử chúng ta chống đỡ.”
Mạc Hoài Hiên rủ mắt, kịp thời che đi châm biếm vừa chợt hiện lên, lạnh nhạt đáp: “Hài nhi sẽ không phụ kỳ vọng của phụ thân.”
Khúc nhạc đệm qua đi, tiếng kèn trống đưa tang vang vọng, giấy trắng tán loạn khắp nơi, trận náo loạn trước cổng Quốc Công phủ ngày hôm ấy lập tức trở thành đầu đề bàn tán khắp chốn kinh kỳ.
Lời đồn như cơn gió lan xa mười dặm tám phương, mà đã là lời đồn thì không tránh khỏi tam sao thất bản, thổi phồng phóng đại, bản phóng đại qua miệng của Diệp đại công tử lại càng phóng đại.
“Quốc Công phu nhân đột nhiên há miệng cười lớn, trong miệng bà ta mọc ra mấy cái răng nanh máu me be bết, mặt xanh như quỷ, vươn đầu lưỡi dài hơn ba thước quấn lấy cổ Mạc Hoài Hiên, nói với Mạc lão nhị rằng, con ta bạc mệnh, ngươi cũng nên xuống dưới làm bạn với nó đi, lời vừa dứt, cuồng phòng ầm ầm nổi lên, bụi cuốn đầy trời, cùng lúc đó, trong quan tài vọng ra tiếng gõ, một tiếng, hai tiếng… thấp thoáng nghe được tiếng nói bên trong…”
Gió đêm nhẹ nhàng lướt qua đình viện, sống lưng Diệp Trọng Cẩm lạnh toát, y đứng bật dậy, bước tới bước lui hai ba vòng trong lương đình: “Ca ca, huynh nghe mấy chuyện này từ đâu vậy?”
Diệp Trọng Huy nâng chung trà lên môi, chậm rãi nhấp một ít trà thơm, bâng quơ đáp: “Trong phủ đều kể như vậy, nghe nói là hóng được từ bên ngoài.”
Diệp Trọng Cẩm bước qua ngồi xuống ghế đá cạnh hắn, vẻ mặt không dám tin: “Mấy chuyện mê sảng thế này, ca ca sẽ không tin là thật đó chứ?”
Diệp Trọng Huy nghiêng đầu nhìn y, đúng lúc bắt được vẻ chột dạ lướt qua đôi mắt đen láy của đệ đệ mình, hắn vững vàng giữ nguyên sắc mặt, bình thản nói: “A Cẩm, mấy chuyện này, thà tin là có.”
Hắn đáp rất nghiêm túc, nói rồi lại giơ ngón tay chạm lên khóe mi của Diệp Trọng Cẩm, hàng mi dày của Diệp Trọng Cẩm run lên, y giơ tay gạt tay hắn xuống, Diệp Trọng Huy không giận, cười khẽ một tiếng: “A Cẩm sợ sao?”
Diệp Trọng Cẩm trợn mắt: “Sợ cái gì, do huynh thêu dệt cả thôi, sớm biết như thế ta không mất công đến đây làm gì cho mệt.”
Diệp Trọng Huy nâng chén trà phỉ thúy lên xoay một vòng thưởng thức, thở dài: “Mẫu thân không cho hạ nhân trong phủ bàn tán lung tung là sợ đệ bị dọa, đệ cứ một mực truy hỏi, ca ca cũng đâu còn cách nào.”
“…”
Diệp Trọng Cẩm đá đá chân dưới bàn, nói: “Ca ca, A Cẩm từng nghe rằng, người càng xấu thì chết đi càng tác ác, người thiện lương chết rồi sẽ trực tiếp chuyển thế đầu thai.”
Diệp Trọng Huy nhíu mày, lại nghe đệ đệ mình nói tiếp: “Cho nên, chuyện ca ca vừa kể, cũng có phần đáng tin.”
“A Cẩm không quen không biết Mạc Hoài An, cớ sao lại cho rằng người này là kẻ xấu?”
Diệp Trọng Cẩm ghé vào tai hắn, nhỏ giọng nói: “Ngũ điện hạ lén nói cho A Cẩm đó, ca ca còn nhớ Trung Thu yến mấy năm trước không, người đẩy Ngũ điện hạ xuống nước chính là Mạc Hoài An.”
Diệp Trọng Huy gật đầu, trí nhớ hắn rất tốt, tình hình hôm đó ra sao hắn nhớ rất rõ, nếu không nhờ Mạc Hoài Hiên kịp lúc cứu người thì Ngũ điện hạ hiện được thánh thưởng sủng ái nhất có lẽ đã hóa thành cô hồn dưới lòng Mộc Phương Hà năm đó rồi.
Trừ chuyện này, Diệp Trọng Huy còn nhớ tới một chuyện còn xưa hơn nữa.
Hắn nhớ khi còn bé, quan hệ giữa Mạc Hoài An và Mạc Hoài Hiên rất tốt, đều là những đứa trẻ chưa hiểu sự đời, nào biết trưởng thứ là gì, tuổi tác lại gần nhau nên càng thân thiết. Có năm vào dịp sinh thần của thái hậu, phụ thân và mẫu thân dẫn hắn vào cung chúc thọ, cuộc gặp gỡ trong cung hôm ấy cũng là lần đầu tiên hắn chạm mặt huynh đệ Mạc gia.
Chuyện qua lâu lắm rồi, giờ cũng chẳng nhớ nổi nguyên do là gì, chỉ nhớ hắn và Mạc Hoài An xảy ra tranh chấp, gây ra động tĩnh rất lớn, hai huynh đệ Mạc gia liên thủ đánh hắn, lúc đó cả ba chỉ là trẻ con, đánh nhau nào có quyền cước gì đáng nói, toàn dựa vào nắm tay làm nên đại sự, hắn chỉ có hai tay, huynh đệ Mạc gia tổng cộng bốn tay, kết quả không nói cũng rõ.
Khi đó Mạc Hoài An còn cười nhạo hắn rằng: “Ai kêu ngươi không có đệ đệ, bị đánh đáng đời.”
Nhìn huynh đệ Mạc gia như vậy, lần đầu tiên trong đời Diệp Trọng Huy hiểu cảm giác hâm mộ người khác là thế nào.
Thân là đích tôn của Diệp Thị, từ nhỏ đã bộc lộ thiên phú hơn người, đến cả tổ phụ nổi tiếng nghiêm khắc nhất nhà cũng không tìm được nửa điểm không tốt trên người hắn, bất kể là chuyện gì, chỉ cần hắn muốn đều dễ dàng đoạt được, vì thế cho nên từ rất lâu rất lâu rồi, Diệp Trọng Huy đã mất đi hứng thú so đo thắng bại.
Chỉ có lần đó, chỉ một câu nói, thành công khơi dậy cảm giác không cam lòng trong hắn.
— Vì sao ta không có đệ đệ?”
Diệp Trọng Huy ôm ấp ý nghĩ ấy từ từ chờ đón Diệp Trọng Cẩm xuất hiện trong cuộc đời mình. Đứa bé đang say giấc trong nôi kia, phụ thân nói, bé là đệ đệ của hắn.
Đối với Diệp Trọng Huy khi còn nhỏ mà nói, đứa bé ấy chính là món quà ông trời đền bù cho hắn, là món quà tốt đẹp nhất mà hắn nhận được.
Quay đầu nhìn lại, Diệp Trọng Cẩm ủ rũ nằm nhoài trên bàn, hàng mi dày run run, hai mắt phản chiếu lại ánh sáng vàng nhạt của ngọn đèn dầu.
Hắn vươn tay xoa mái tóc đã thấm lạnh của y, thở dài một tiếng, dùng giọng điệu cực kỳ chính trực đưa ra đề nghị: “A Cẩm nếu không dám về thì ở lại đây ngủ với ca ca, giường ca ca rất lớn, ngủ hai người vẫn dư dả.”
Diệp Trọng Cẩm ném qua cái liếc mắt khinh thường, bĩu môi nói: “Tuy có hơi sợ nhưng không tới nỗi không dám về, ta còn có Đại Miêu mà.”
“Đại Miêu?”
Nhắc đến con hổ ngốc kia, Diệp Trọng Cẩm toét miệng cười, con ngươi lấp lánh ánh quang, hào hứng nói: “Là tiểu bạch hổ đó, đệ đặt tên cho nó là Đại Miêu.”
Đầu ngón tay Diệp Trọng Huy nặng nề tăng lực, suýt chút bóp nát chén ngọc phỉ thúy trong tay, nét mặt vẫn lạnh nhạt không đổi, tán dương một câu: “Cái tên này nghe cũng không tệ.”
Y hệt vị thái tử điện hạ kia, rõ ràng bản thân là cầm thú, ở trước mặt A Cẩm lại bày ra bộ mặt ngoan ngoãn vô hại như mèo nhỏ, cố sống cố chết bám riết A Cẩm, còn hay giả vờ đáng thương để tranh thủ cảm tình, quả là điển hình cho loại vô liêm sỉ.
Diệp Trọng Cẩm không biết suy nghĩ trong lòng ca ca mình, ngược lại nghe hắn khen thì rất hài lòng, An ma ma ngày nào cũng lải nhải bên tai, trách y dùng cái tên này chà đạp uy danh của lão hổ, bây giờ xem đi, đến ca ca cũng khen cái tên nghe không tệ, lần sau An ma ma còn lải nhải nữa, y sẽ dùng cớ này để phản bác.
Diệp Trọng Cẩm vui vẻ uống hết chung trà ngon của Diệp Trọng Huy rồi cười nói: “Chuyện cần hỏi đã hỏi xong rồi, đệ trở về ngủ, ca ca cũng nghỉ ngơi sớm một chút.” Y đặt chung trà rỗng xuống rồi bước ra khỏi lương đình, trời đêm gió mát, vừa xuống khỏi bậc thang Xuân Ý đã chạy tới khoác thêm lên vai y một tấm áo mỏng.
Diệp Trọng Huy nhìn theo bóng lưng y lặng lẽ buông tiếng thở dài, chuyện ở phủ Quốc Công hắn đương nhiên biết rõ, nhưng hắn cũng giống mẫu thân, không muốn để mấy chuyện xấu xa của nội trạch làm bẩn tai A Cẩm.
Không phải Quốc Công phu nhân thình lình nổi điên, càng không phải ngẫu nhiên, nhất định có người ngấm ngầm giở trò. Còn người đó là ai, tạm thời chưa thể khẳng định.
Hiện tại bên ngoài cũng xôn xao bàn tán chuyện này khắp nơi, nhưng không ai hỏi vì sao Quốc Công phu nhân nổi điên, trọng điểm chỉ xoay quanh câu hỏi những lời bà ta nói hôm ấy đến cùng là thật hay giả.
Vô luận là thật hay giả, hiềm khích giữa Mạc gia và Thượng Quan gia cũng đã nảy sinh rồi.
Sáng hôm sau, An Thị nghe lời khuyên của An ma ma, đưa con trai đến Kim Quang Tự dâng hương, tiện thể tẩy trừ xúi quẩy.
Hiếm khi được dịp ra ngoài, Diệp Vân Triết và Diệp Nhược Dao cũng đi cùng để hít thở không khí kinh thành.
An Thị cùng phu nhân của Diệp Minh Khôn và Diệp Nhược Dao ngồi một xe, ba tiểu thiếu gia ngồi một xe khác.
Kim Quang Tự nằm ở thành nam, bên bờ sông Tam Thủy, phong cảnh hợp lòng người, nhang đèn ngày thường vô cùng hưng thịnh, phu nhân quý nữ trong kinh muốn cầu nhân duyên hay sinh con đẻ cái, thậm chí cầu phúc thọ bình an đều đến đây dâng hương lễ Phật.
Trước cổng Kim Quang Tự đặt một khối cẩm thạch rất lớn, bên trên đề ba chữ: “Tam Thủy Hà”. Bên cạnh bia đá là hàng liễu rủ, nhành liễu quét xuống mặt hồ tạo nên những vòng sóng gợn xao động không ngừng, từ xa đã thấy phong cảnh hữu tình, quả là hài hòa đẹp mắt.
Diệp Vân Triết kinh ngạc thốt lên: “Tam Thủy… Cái tên quái quỷ gì thế này?”
Diệp Trọng Huy đáp: “Tam Thủy là chỉ Minh Nguyệt hồ ở thành tây, Vọng Lan hồ ở thành bắc, Lục hồ ở thành đông, nước ở ba hồ đều từ sông này đổ qua, có thể xem như hồ mẹ của ba hồ kia, nên được gọi là sông Tam Thủy.”
Diệp Vân Triết nghe vậy càng thấy nước sông này khéo léo linh hoạt, nói: “Đa tạ Trọng Huy đường đệ giải đáp nghi vấn, nói ra thật xấu hổ, ta đến kinh thành hơn hai tháng rồi mà chưa có dịp tham quan phong cảnh nơi này, nếu có cơ hội, nhất định phải đến sông Tam Thủy này du ngoạn một phen.”
“Chỉ có Minh Nguyệt hồ là đáng du ngoạn một chút, hai hồ còn lại không có gì đặc sắc. Bên bờ Minh Nguyệt có một tòa Vọng Nguyệt Lâu, nếu đường huynh muốn ngắm cảnh sóng nước hữu tình thì nên đến nơi này một chuyến, không cần thiết phải lên tầng cao nhất, từ cửa sổ lầu ba trông ra là đã có thể thấy đủ cảnh sắc của Minh Nguyệt hồ rồi.”
Diệp Vân Triết thụ giáo, lại nói thêm vài câu cảm tạ.
Sắc mặt Diệp Trọng Cẩm tái nhợt, Vọng Nguyệt Lâu mà Diệp Trọng Huy vừa nhắc, chính là nơi y táng mệnh đời trước.
Trước đây y vẫn luôn cho rằng, con người một khi đã chết rồi thì không nên dằn vặt truy cứu nguyên nhân vì sao mình chết làm gì nữa, như vậy rất vô nghĩa, càng huống chi đời trước kẻ mong y chết đếm cũng không hết, muốn truy cứu e cũng không có kết quả. Nhưng hôm nay khi nghe thấy ba chữ “Vọng Nguyệt Lâu” ấy, lòng y chẳng thể nào tự tại như trước được.
Cái cảm giác không được tự nhiên ấy càng đến gần đại điện càng hiện lên rõ ràng, chỉ có hơn mười bậc thềm đá, y lại bước rất trầy trật, chân muốn nhũn ra, bước chân lảo đảo hư không. Diệp Trọng Huy nhíu mày, nói: “A Cẩm bình thường không đi đường có bậc thang nên chắc là không quen, để ca ca cõng đệ.”
An Thị quở trách: “Không được làm bậy, bái Phật phải thành tâm, há lại có đạo lý làm thay như con, con thay A Cẩm đi hết bậc thang có khác gì thay A Cẩm nhận luôn phúc khí.” Nói rồi nhìn sang con trai nhỏ của mình, giọng dịu hẳn đi: “Nếu A Cẩm thấy mệt thì chúng ta nghỉ ngơi một lát rồi đi tiếp nhé, được không?”
Diệp Vân Triết và Diệp Nhược Dao cũng lo lắng nhìn y.
Diệp Trọng Cẩm lắc đầu, cười nói: “Không sao, ca ca nói không sai, con không quen leo bậc thang thôi.”
An Thị cũng không còn cách nào, nắm tay con trai nhỏ, cùng y bước từng bước một.
Còn chưa bước qua cánh cửa gỗ hồng hương, nội tâm Diệp Trọng Cẩm đã hoảng hốt, y ngẩng đầu trông lên, tòa kim thân Phật tượng đặt giữa đại điện tức thì in vào trong mắt, tượng Phật vốn dĩ mang theo nụ cười từ bi xót thương nhân thế, ấy vậy mà y hình như hoa mắt mất rồi, chỉ thấy nét mặt tượng Phật trên cao nhìn y sao mà nghiêm nghị, y ráng nhìn lại một lần nữa, biểu tình của tượng Phật lại trở về hàm hậu từ bi, cứ lòng vòng như vậy mấy lần, lòng bàn tay Diệp Trọng Cẩm không biết từ lúc nào đã ướt đẫm mồ hôi.
Thay vì nói tâm mình hốt hoảng, chẳng bằng bảo rằng chột dạ, y giật tay mình khỏi tay An Thị, theo bản năng quay đầu bỏ chạy.
Y không phải Diệp Trọng Cẩm, y vốn đã chết rồi, duyên số thế nào lại chiếm lấy cơ thể của người khác để sống tiếp. Phật Tổ có phải đã nhận ra rồi không, cho nên muốn thu phục y?
“A Cẩm!”
“A Cẩm đệ đệ…”
Y nghe thấy có rất nhiều người gọi y, nhưng y không muốn quản nữa, trong đầu y lúc này chỉ còn sót lại một ý nghĩ, phải chạy trốn, phải cách thật xa nơi này. Trong cơn hoảng hốt, dưới chân loạng choạng đạp hụt một bậc thang.
Không có đau đớn ập đến như y tưởng tượng, trước mặt y là một lồng ngực cứng cỏi ấm áp, chỉ có chóp mũi bị đụng là hơi đau một chút. Diệp Trọng Cẩm xoa mũi, hốc mắt ngập trong tầng nước mỏng, đây là phản ứng bình thường của cơ thể, y không khống chế được.
Qua tầng nước mông lung, trong mắt hiện ra gương mặt tươi cười và đôi mắt đen sâu khó lường quen thuộc.
Cố Sâm lau đi lớp mồ hôi rịn trên trán y, thân thiết hỏi: “A Cẩm làm sao vậy?”
Nhóc này cứ như mèo con vô ý xông vào địa bàn người khác, bị người ta xua đuổi, hoảng hốt chạy bừa thế nào mà trốn luôn vào lòng gã thợ săn.
Diệp Trọng Cẩm cắn môi, im lặng không đáp.
Cố Sâm ngước nhìn nhang đèn lượn quanh kim thân Phật tượng, tim như bị ai bóp chặt.
A Cẩm là tiểu quỷ mượn xác hoàn hồn, cho nên đến chùa miếu bị Phật khí đuổi ra.