Đối với nội thần thường theo hầu hạ bên cạnh chủ nhân thì buổi sáng ngày xuân không làm nhiệm vụ mà được nhàn nhã đi lại trong cung thực sự là sự hưởng thụ xa xỉ. Khang Kiện đi ra từ cung Từ Ninh, đến cuối đường tây bên ngoài thì quẹo hướng viện Cư Dưỡng phía đông. Trong viện yên tĩnh không có tiếng người, cây đại thụ bên tay trái lại che đi mặt trời ấm áp, không biết đã làm cậu ta nhớ tới cái gì mà đờ ra mất một lúc.
“Là thất gia à?” Một bóng dáng yểu điệu bước ra từ hành lang, lấy tay áo che mắt dịu dàng cười nói.
Khang Kiện kinh ngạc giật mình: “Cô nương Minh Châu? Đã lâu không gặp.”
“Đúng vậy.” Minh Châu đi tới nói, “Năm kia sau khi từ Hàn châu trở về chỉ gặp thất gia có hai lần. Thất gia đến đây là…”
“À!” Khang Kiện cười bảo, “Nghe nói gần đây sư ca thăng chức đến cung Càn Thanh, hôm nay tôi được rảnh rang, muốn tới đây chúc mừng anh ấy.”
“Thất gia tới không khéo. Mấy ngày này từ tinh mơ lục gia đã đến cung Càn Thanh rồi, cũng không biết chừng nào mới về.”
Vẻ cười trong mắt Khang Kiện càng tươi hơn: “Cô nương vẫn đến đây mỗi ngày à? Sư ca còn được cô nương nhọc lòng.”
Mặt Minh Châu hơi đỏ lên: “Thất gia đang nói gì vậy? Cẩn thận sư ca ngài biết sẽ giận đấy.”
Tiểu Thuận Tử từ ngoài chạy vào, kêu la om sòm không phải lúc: “Quả nhiên chị Minh Châu ở chỗ này.”
Minh Châu trách móc rằng: “Gì mà quả nhiên ở chỗ này? Ở trước mặt sư thúc cậu mà không biết có chừng có mực.”
Tiểu Thuận Tử vội vàng hành lễ với Khang Kiện, hổn hển nói: “Không nhắc đến việc này nữa. Giờ tú nữ nhân đã vào cung chờ tuyển chọn, thái hậu ra ý chỉ muốn chị làm giám khảo nữ công. Thầy nhận được tin từ phủ Nội vụ, bảo chị mau về chờ chỉ đấy.”
Minh Châu vội cáo từ với Khang Kiện, Tiểu Thuận Tử cũng muốn về cung Càn Thanh nghe Tịch Tà sai bảo, trong chớp mắt viện Cư Dưỡng lại vắng vẻ không người, chỉ có tiếng “xào xạc” nhỏ của lá cây mặc cho gió ấm thổi bay. Khang Kiện đi vào nhà giữa, cảnh vật như trước, không dính một hạt bụi, dường như thái giám Thất Bảo sẽ đi ra từ trong phòng. Khang Kiện quỳ phịch xuống trước chỗ ngồi chính giữa của thái giám Thất Bảo, không nén nổi khóc không thành tiếng.
Từ tháng Tám năm trước đến nay, sứ trưng lương được phái đến các nơi không phụ lệnh vua, tổng cộng số lương trưng được là sáu trăm ngàn lượng. Vì Cao Hậu bị hạch tội nên thuế ruộng Hồng châu chưa được trưng đủ như mong muốn nhưng Hồng vương vẫn sai người chuyển hai trăm ngàn lượng bạc trắng đưa tới kinh thành đúng hạn. Hoàng đế chẳng những hết lời khen ngợi Hồng vương mà còn muốn ban tên cho thanh kiếm ngự dụng là “kiếm Định Quốc” rồi sai người dâng đến đại doanh núi Đa, phong con trai Hồng Định Quốc làm đô úy Thượng khinh xa, khen là dẹp giặc có công. Lần này vua tôi bọn họ làm bộ làm tịch khiến trong ngoài triều đình ca múa mừng cảnh thái bình. Thượng thư bộ Hộ La Tấn và thượng thư hộ Binh Ông Trực nhân đó mà dâng tấu, tấu xin xuống chiếu gọi sứ trưng lương các nơi trở về.
Hoàng đế vẫn muốn sứ trưng lương sám sát việc chính trị ở các nơi, đành hỏi ý của mấy người tâm phúc.
Tịch Tà cười nói: “Hai người La Tấn và Ông Trực có em vợ trưng lương ở đất phiên, có vết xe đổ của Cao Hậu, sợ rằng người thân có sơ xuất nên muốn họ sớm ngày về kinh cũng là chuyện thường tình của con người.”
Thành Thân vương ở bên nói: “Thì ra là thế.”
Hoàng đế bảo: “Ý của trẫm là để họ ở lại thêm một thời gian nữa. Trước mắt phương Bắc căng thẳng, các nơi không có ai giám sát, chỉ sợ đất phiên sẽ trở thành tai họa trong lòng.”
Tịch Tà nói: “Nô tỳ lại lo việc khác.”
Hoàng đế và Thành Thân vương đều “à” một tiếng: “Nói.”
“Chức quan của sứ trưng lương không cao, lại ở nơi hiểm của phiên vương, như người cõng đá trên lưng, có thể chống đỡ được nửa năm, quả thật đã không dễ dàng, cần phải triệu về động viên và cho đoàn tụ với người nhà. Bên phía phiên vương bị người khác nhìn chòng chọc nửa năm ròng, đã muốn phát tác từ lâu, triều đình lại muốn bức ép nữa thì e sẽ chọc giận họ. Thi hành biện pháp chính trị có chặt có lỏng, dây căng quá thì sẽ đứt ạ.”
Hoàng đế còn đang trầm ngâm, chỉ nghe Tịch Tà cười nói: “Điều nô tỳ lo lắng nhất vẫn là mỗi phiên vương đều giỏi quyền mưu và giàu mạnh, các sứ trưng lương này ở lại lâu, một khi chạm đến chỗ hiểm của họ, gặp phải thủ đoạn thâm độc thì cũng đành. Nhưng người chứ không phải cây cỏ, có dục có vọng, nếu tâm chí không kiên, bị người ta mua chuộc thì há chẳng phải hoàng thượng lại bị hổ cắn ngược ư?”
Thành Thân vương gật đầu: “Hoàng thượng thật lòng thật dạ trọng dụng họ, nếu có người không biết phân biệt mà cùng gài bẫy hoàng thượng với kẻ khác thì quả thật là đáng chết.”
Lưu Viễn cả kinh rét buốt, ngẩng đầu thấy nụ cười sâu xa của Tịch Tà thì lưng chợt túa ra một tầng mồ hôi lạnh.
“Thái phó!” Hoàng đế gọi hai tiếng không thấy lão trả lời, đành cất cao giọng.
“Hoàng thượng thứ tội, lão thần không chú ý.”
“Thái phó thấy thế nào?”
Lưu Viễn nói: “Thần cho rằng nỗi lo của Tịch Tà rất có lý. Nên triệu sứ trưng lương về trước thôi.”
Hoàng đế lập tức quyết định, phê chuẩn sổ gấp của La Tấn và Ông Trực, muốn triệu sứ trưng lương bốn cõi trở về. Sau đó lại bàn đến chuyện chính trị khác, Cát Tường không nhịn được, lại tới thúc giục: “Vạn tuế gia, hôm nay là ngày tú nữ vào cung chờ tuyển chọn, thái hậu đã sai người đến thúc giục quá nhiều rồi, muốn vạn tuế gia đến tự chọn.”
Hoàng đế nói: “Khanh đi mời thái hậu chọn thay trẫm là được, thực sự không thể phân thân rời khỏi cung Càn Thanh được.”
“Bổ sung hậu cung cũng là chuyện lớn của hoàng gia.” Thành Thân vương khuyên nhủ, “Hoàng thượng tận mắt nhìn há lại không tốt hơn sao?”
Cát Tường thưa: “Thái hậu còn có ý chỉ, hỏi trong phủ Thành Thân vương có thiếu người không, có thể tới cùng hoàng thượng ạ.”
Thành Thân vương cười nói: “Anh bẩm lại với thái hậu, giai lệ trong phủ con trai nhiều lắm, năm nay không thiếu người.”
Cát Tường lĩnh mệnh đi ra, hơn một canh giờ sau mới về, mừng khấp khởi mà bẩm: “Chúc mừng vạn tuế gia, thái hậu đã chọn mấy mỹ nhân tuyệt sắc thực thụ thay vạn tuế gia rồi ạ.”
Hoàng đế cười to: “Mỹ nhân tuyệt sắc?” Lúc đó sắc đẹp của Nghị phi dẫn đầu hoàng phi trong cung, đã là giai lệ khó gặp lắm rồi, bởi vậy mới hỏi, “So với Nghị phi thì thế nào?”
Cát Tường rất khó xử, suy nghĩ một lát thì thưa: “Nô tỳ chưa so sánh ạ.” Ngụ ý là chỉ e còn đẹp hơn.
Hoàng đế nói: “Tất nhiên xinh đẹp là chuyện tốt nhưng không biết nhân phẩm tính cách thế nào. Nếu ỷ vào việc có sắc đẹp mà muốn cậy sủng ngang ngược, uổng cho thân xác thì há chẳng phải chuyện đáng tiếc?”
Thành Thân vương ở bên vội ho một tiếng, hoàng đế mới thấy mình lỡ lời. Mẫu hậu mình chính là người có dung nhan tuyệt sắc, được yêu chiều mấy chục năm không suy giảm. Bèn nói ngay: “Hôm nay thái hậu phong những ai?”
Cát Tường đáp: “Phong hai người là Hoà thục nghi và Hài thục nghi.”
Hoàng đế nói: “Khi nào rỗi, trẫm sẽ đi xem. Hôm nay không còn sớm nữa, các người đều nghỉ ngơi đi thôi.”
Lúc Tịch Tà và Tiểu Thuận Tử trở lại viện Cư Dưỡng, trùng hợp Minh Châu cũng mới vừa về. Tịch Tà cả ngày chưa cơm nước gì, khô miệng khô lưỡi. Minh Châu bèn đun trà tới, nói: “Hôm nay tuyển tú, tôi ở bên nhìn. Đất trung nguyên lớn, chẳng những là đầm rồng hang hổ mà ngay cả gái đẹp cũng muôn màu muôn vẻ.”
Tiểu Thuận Tử nói ngọt: “Chị cứ đùa, nào có thể so với Đại Lý người giỏi đất thiêng, có thể tạo ra nhân vật như chị?”
Tịch Tà uống nửa chén trà nhỏ, mới cười thì đột nhiên phất tay hất chén trà trong tay Tiểu Thuận Tử xuống đất.
Tiểu Thuận Tử cả kinh giật mình: “Th, thầy, con nói sai rồi ạ?”
“Trong trà có độc.” Tịch Tà há miệng nôn nước trà vừa uống ra, trấn tĩnh nói, “Tìm chút nước tới cho ta uống.”
Tiểu Thuận Tử đã sợ đến đờ người, tay chân run rẩy. Dù gấp nhưng đầu óc Minh Châu nhanh nhạy, nàng nói: “Không được, chỉ e là đầu độc ở trong ang nước.” Tự mình xoay người chạy vội tới bên tủ đựng thức ăn, lấy ra hau lọ sữa dê mà sáng nay đưa tới từ bên trong, đút cho Tịch Tà. Tịch Tà chịu đói cả một ngày, trong bụng rỗng tuếch, chỉ gượng nôn ra sữa dê vừa uống rồi lại uống hơn nửa lọ để làm loãng độc tính. Song hắn vẫn cảm thấy độc dần tỏa ra hướng kinh lạc, không dám thờ ơ, lúc này bèn tựa vào tường ngồi xếp bằng, tập trung tinh thần, thầm vận nội lực vòng quanh để chống chọi. Chẳng bao lâu sắc mặt đã dần trở nên óng ánh trong suốt, khí trắng lay động tản ra quanh người, giọt nước ngưng tụ dày đặc trên tóc và quần áo chính là dấu hiệu của việc nội lực bị thúc giục hết mức. Minh Châu thấy hai tay hắn chuyển từ trắng thành đen, tầng khí đen kia lại từ từ biến mất, biết hắn đã ép độc tràn ra đầu ngón tay thì thấy an lòng hơn. Nàng vừa mới thở phào nhẹ nhõm, môi Tịch Tà lại đen lại, chợt sặc ra một ngụm máu tươi. Minh Châu biến sắc, vội tới đỡ lấy cơ thể Tịch Tà.
“Thầy ơi!” Tiểu Thuận Tử gấp đến độ nước mắt ròng ròng.
Hốc mắt Tịch Tà lõm sâu xuống, tựa ở trên bàn ho mạnh một hồi mới khó nhọc nói: “Mời thầy Trần lặng lẽ qua đây. Nhớ không được để lộ ra.”
Tiểu Thuận Tử gật đầu, chạy như điên ra ngoài.
Tịch Tà nói với Minh Châu: “Độc tính trong gian phòng này quá lớn, không thể ở nữa.” Rồi được Minh Châu chậm rãi dìu tới chái đông, ngồi ở trên giường, ho không ngừng, mồ hôi lạnh túa ra.
Cũng may chẳng bao lâu sau Trần Tương đã xoa mồ hôi, chạy vội tới theo Tiểu Thuận Tử, lập tức được mời vào bên trong phòng khám bệnh.
Tịch Tà phất tay cho Minh Châu và Tiểu Thuận Tử lui ra. Minh Châu không yên lòng, lặng lẽ ở ngoài cửa sổ lắng nghe. Trong phòng chỉ truyền tới tiếng ho từng cơn của Tịch Tà, một lát mới nghe được Trần Tương thở dài: “Độc đã tản ra rồi nhưng nội thương này bị phát tác lần hai, đã không thể khỏi được nữa.”
Tịch Tà nói: “Là tôi không biết nặng nhẹ, vận công gấp gáp. Thầy xem rốt cuộc thương thế thế nào?”
Trần Tương cười nói: “Không có gì, với nội lực tu hành của ngài bù vào thì nhiều lắm là ho hen một chút vào mùa đông. Chỉ tiếc ngài còn trẻ mà từ nay đã phải gánh căn bệnh này, không thể không nói là một chuyện đáng tiếc.” Sau đó im ắng một lúc, chắc là Trần Tương đang kê toa thuốc, “Ngài cũng đã là người lớn rồi, nhớ bớt đánh nhau với người khác đi.” Tịch Tà bật cười trong cơn ho. Trần Tương đột nhiên nói: “Cô nương Minh Châu vào đi, cô đợi như vậy không dễ chịu đâu!”
Mặt Minh Châu nóng lên, đi vào nhà: “Để thầy chê cười rồi.” Trong lòng thì cảm phục ông già khô gầy này luôn có tác phong trấn tĩnh, tình hình như vậy mà bị ông ta nói dăm ba câu nhẹ nhàng hóa giải.
Trần Tương lấy lọ thuốc ra đặt lên đầy bàn, chỉ ra cho Minh Châu phân biệt được đâu là viên thuốc trị ho, đâu là giải độc, còn đặc biệt đưa một lọ sừng trâu cho Tịch Tà và nói: “Viên thuốc này cực kỳ có ích cho việc tăng âm, là thuốc thiêng để trị nội thương của ngài. Tôi luyện mất sáu năm mới được mười hai viên, vốn định cho thầy ngài kéo dài tuổi thọ.” Ông ta “khụ” một tiếng, cười nói, “Nửa tháng một viên, nhớ dùng nội lực tiêu hóa.”
Tịch Tà nhìn theo Trần Tương ra ngoài mới uống thuốc rồi vận công chữa thương. Minh Châu không dám đi xa bèn cùng Tiểu Thuận Tử ngồi ở gian ngoài chờ. Cho đến nửa đêm, Tịch Tà mở mắt ra, có vẻ tinh thần đã tốt hơn bảy phần, không còn ho nữa, đột nhiên hỏi: “Hôm nay có ai tới à?”
Minh Châu và Tiểu Thuận Tử nhìn nhau, vẻ mặt thay đổi: “Sáng hôm nay Khang Kiện đã tới. Tôi bị thái hậu truyền đi, khi đó trừ Khang Kiện ra thì viện Cư Dưỡng không còn ai nữa.”
Tịch Tà trầm mặc một lát, dâng lên vẻ mệt mỏi, nói: “Đêm đã khuya, ngày mai lại nói đi.”
Ngày hôm sau, vẻ mặt và tinh thần Tịch Tà đã trông khá hơn. Nếu hắn không muốn lộ ra thì tất nhiên hoàng đế và Thành Thân vương không hề cảm giác được chút khác thường nào. Chỉ có hai người Cát Tường, Như Ý tinh mắt, thấy phong thái hắn tản mạn, giọng nói thậm thụt, kéo lấy hắn định hỏi thì đã có thượng thư sáu bộ bọn La Tấn, Ông Trực phụng chỉ xin gặp, bèn cho Tịch Tà chạy mất. Từ lâu đã có nội thần cung Càn Thanh đồn ra bên ngoài là Tịch Tà nói tốt cho sứ trưng lương ở trước mặt vua nên mấy ngày nay đám người La Tấn, Ông Trực đều âm thầm nhận được không ít lợi ích từ Tịch Tà, trong lúc vui mừng cũng tươi cười đối với Tịch Tà. Hoàng đế và Thành Thân vương đã vào thư phòng từ sớm, lúc này ở bên trong gọi người. Mọi người bàn bạc xem nên bắt đầu vận chuyển quân lương đến Lương châu thế nào. Hoàng đế nói: “Đương nhiên không thể dốc hết tám trăm ngàn lượng quân lương tới Lương châu trong một lần được. Lấy hai trăm ngàn lượng làm giới hạn, bắt đầu vận chuyển từng nhóm một.”
Việc này bèn giao cho bộ Binh dẫn đầu lo liệu. Lại nói đến việc triệu sứ trưng lương về, hoàng đế bảo: “Các sứ trưng lương này ở ngoài nửa năm, ngược xuôi khổ cực vì triều đình. Lần này quân lương đã được sắp xếp xong, bọn họ không phụ mong mỏi của trẫm, có thể nói tấm gương của bề tôi, trẫm chuẩn bị triệu họ về, đều được lên chức phong thưởng.”
La Tấn và Ông Trực mừng lắm, đang định tạ ơn thay sứ trưng lương thì thình lình nghe có người nói: “Thần có ý kiến khác.” Ấy chính là Ngô Tái Dư – đô ngự sử viện Đô Sát – ra khỏi hàng mà tâu, “Thần cho rằng triều đình dùng binh ở bắc không phải chuyện trong một hai năm, việc trưng thu thuế ở đất phiên không thể gián đoạn, các sứ trưng lương này ở đất phiên lâu ngày nên biết rất tường về chuyện chính trị của địa phương, vẫn nên ở lại nơi đó để phòng lúc triều đình cần quân lương.”
Đây vốn là ý của hoàng đế, nếu không lo sứ trưng lương phản bội để phiên vương lợi dụng thì chắc chắn sẽ kiên trì để họ ở lại đất phiên. Vì vậy hắn ta nói với Ngô Tái Dư nói: “Trẫm cũng nghĩ tới lo lắng của Ngô khanh. Nhưng sứ trưng lương là người trong biên chế của bộ Hộ, gia quyến cũng ở kinh thành, bọn họ vì triều đình mà đi sứ phương xa nhiều tháng đúng là gian nan. Nay quân lương tạm không cần lo, ép họ ở lại canh giữ đất phiên thì không phải hành động của vị vua nhân ái.”
La Tấn thở dài nói: “Hoàng thượng nhân từ thánh minh!”
Ngô Tái Dư nói: “Xin hoàng thượng nghĩ lại, một ý nghĩ nhân ái lúc này thì tương lai thêm phần trắc trở.”
“Ngô khanh, hôm qua trẫm và đám người Thành Thân vương, thái phó, Tịch Tà đã bàn cẩn thận việc này, lúc đó đã quyết định rồi.”
Hoàng đế không nhắc tới Tịch Tà thì thôi, với vị trí đứng đầu viện Đô Sát, Ngô Tái Dư đã muốn ra sức gián vua ngăn chặn nội thần tham gia việc chính trị từ lâu, lúc này bèn nắm lấy cơ hội mà rằng: “Hoàng thượng, họa yêm hoạn bắt đầu từ việc tham dự vào chính trị. Hoàng thượng dung túng trong chốc lát, nuông chiều sinh hư, quang vinh làm dấy lửa, tất có sĩ phu tranh ton hót trước, tạo thành phe cánh. Lâu ngày sinh bè đảng, là nguồn cơn của sự loạn trong nước. Hoàng thượng càng không thể nhẹ dạ cả tin lời xúi giục của một hai nội thần mà đưa ra quốc sách sai lầm.”
Hoàng đế biết sớm muộn gì người này cũng sẽ làm khó Tịch Tà, thấy ông ta dần nói đến chỗ hiểm, vẫn trấn tĩnh hỏi: “Cái gì mà xúi giục? Trong mắt khanh, hoàng đế là một người bị kẻ khác thao túng sao? Trong mắt khanh, các thần đều là phường nịnh hót à?”
Ngô Tái Dư đáp: “Thần không dám. Mọi lo lắng canh cánh của thần đều vì hôm thi hội võ, hoàng thượng lệnh hoạn quan tự tiện chọn tiến sĩ mà ra. Lúc đó hoàng thượng thiếu cân nhắc, chỉ e sẽ trở thành trò cười của đời sau?”
“À?” Hoàng đế nén giận nói, “Trò cười? Vậy thứ tự tiến sĩ khoa võ năm nay vốn nên thế nào? Khanh nói nghe thử xem.”
Ngô Tái Dư bỗng nghẹn lời, ông ta chỉ cảm thấy lòng mình đầy căm phẫn, hoàn toàn chưa từng nghĩ tới còn có thứ tự tiến sĩ khoa võ năm nay nào tốt hơn.
Hoàng đế lại hỏi: “Khanh có nghe được lời bất mãn gì trong tiễn sĩ võ không?”
Tịch Tà dựa theo ý muốn một sự nhịn chín sự lành nên cười nói với hoàng đế: “Nô tỳ còn trẻ, lần này vượt quá chức phận, làm thay việc của người khác, trong tiến sĩ võ có người thấy bất công cũng là chuyện thường tình.”
Hoàng đế há lại để Ngô Tái Dư làm càn, hắn ta nhìn chằm chằm không tha lại hỏi một câu: “Ngô khanh, rốt cuộc có hay không?”
Ngô Tái Dư vốn đã cạn từ, lúc này thấy gương mặt cười như ngọc của Tịch Tà như thể đang trào phúng, không khỏi thẹn quá hóa giận, quát lên: “Cái tên hoạn nhà mi! Nay mê hoặc hoàng thượng, chuyên quyền triều chính, sớm muộn gì cũng sẽ làm bại hoại tổ tông xã tắc. Hoàng thượng minh giám!” Ông ta trỏ vào khuôn mặt trắng như tuyết của Tịch Tà, hô lên với hoàng đế, “Nô tài đê tiện cỡ ấy nên sớm trục xuất trị tội.”
Tịch Tà đang yếu người nên hết sức nóng nảy, lúc này sắc mặt lạnh lẽo, vẻ hung ác bỗng dấy lên trong mắt.
“Cạch” một tiếng, Thành Thân vương đặt mạnh chén trà lên trên bàn: “Ngô Tái Dư, ông hò hét cái gì? Trên triều đình mà miệng lại phun ra lời lẽ ô uế làm nhục hoàng thượng, thật là to gan!” Nhân vì năm ngoài Ngô Tái Dư tố y kết giao ca nữ, khoe lhoang trước mặt tiến sĩ khóa mới làm mất thể thống hoàng gia nên Thành Thân vương ôm hận với người của viện Đô Sát, nào chịu tha cho ông ta.
Ngô Tái Dư mới thấy lỡ mồm quá thể bèn quỳ xuống đất xin chịu tội.
Hoàng đế trầm mặt nói: “Đánh ra ngoài!”
Tay Ngô Tái Dư này xưa nay thích làm chuyện mua danh cầu lợi nên nhân duyên cực kém. Tất cả mọi người ở đây đều từng bị ông ta tố cáo, thêm việc thấy hoàng đế và Thành Thân vương rõ ràng đều che chở cho Tịch Tà, kẻ nào dám đắc tội nên lúc này không một người xin tha cho ông ta. Hoàng đế đã xuôi xuôi, tiếp tục bàn chuyện, chưa phát hiện đã qua một canh giờ, đã tới chính ngọ. Cát Tường đi tới trước cửa nháy mắt với Tịch Tà.
Tịch Tà tranh thủ thấp giọng nói với hoàng đế: “Vạn tuế gia, e là Ngô Tái Dư còn quỳ ở bên ngoài xin được trị tội, thời tiết nóng bức, tuổi tác của ông ta cũng đã cao…”
Hoàng đế không muốn Tịch Tà gây thù hằn quá nhiều, bèn nói: “Cát Tường, bảo Ngô Tái Dư về hối lỗi, tự mình dâng tấu xin được trị tội.”
Cơn tức này của Ngô Tái Dư không phải chuyện đùa. Ông ta trở lại phủ bèn đóng cửa phòng sách rồi nhục mạ Tịch Tà một trận. Người làm biết tính tình lão gia xưa nay không tốt, thấy ông ta nổi trận lôi đình, bị dọa cho chạy mất dạng. Đáng tiếc buổi chiều lại cứ có khách tới chơi, quản gia đành nhắm mắt mà gõ cửa, thưa: “Lão gia, thái giám Tịch Tà giữ bút ở phòng sách trong cung ở ngoài cửa đưa thiếp mời, lão gia có gặp không ạ?”
Đúng là đổ thêm dầu vào lửa, Ngô Tái Dư hét lớn: “Không gặp! Anh bảo mấy thằng trước cửa đánh hắn về đi!”
Quản gia đành nói tiếp: “Lão gia, hắn phụng ý chỉ của Thành Thân vương tới hỏi. Còn nói sáng hôm nay lão gia vẫn dồi dào tinh thần, xin lão gia chớ mượn cớ ốm không gặp.”
Ngô Tái Dư cả giận nói: “Lẽ nào ta lại sợ hắn sao? Dẫn hắn vào đây.” Ông ta ngồi nghiêm chỉnh ở phòng khách, chỉ chờ ra oai phủ đầu với Tịch Tà. Không bao lâu sau tiếng bước chân ung dung vang lên trước cửa, Tịch Tà dẫn Tiểu Thuận Tử bước vào cửa, chắp tay nói: “Thỉnh an đại nhân Đô ngự sử.”
Ngô Tái Dư nói: “Một tên nội thần nho nhỏ như anh mà chỉ làm chút lễ thế này ở trước mặt mệnh quan triều đình thôi à? Thành Thân vương có lời gì, anh cứ hành lễ xong hẵng nói.”
Tịch Tà nhỏ giọng cười: “Ngô đại nhân, trên triều đình chúng ta đối chọi gay gắt, lúc riêng tư còn phải giả vờ nữa ư? Nô tỳ mượn cớ mang ý chỉ của Thành Thân vương chỉ để gặp đại nhân một lần.”
Ngô Tái Dư cả giận nói: “Anh thật to gan, dám ngụy tạo ý chỉ của thân vương!”
“Đại nhân muốn nổi giận thì đợi xem quà của tôi xong đã. Tiểu Thuận Tử, dâng danh mục quà tặng lên cho Ngô đại nhân.”
“Anh cho rằng ta là người thế nào mà lại nhận hối lộ của hoạn quan?” Ngô Tái Dư chỉ cảm thấy vô cùng nhục nhã, “Ở trong mắt ta, chỗ vàng bạc tiền của này của anh chẳng qua chỉ là rác rưởi thôi.”
“Vàng bạc tiền của?” Tịch Tà kinh ngạc nói, “Đại nhân coi khinh nô tỳ rồi. Trên đời này có người tham vàng bạc, có người háo sắc đẹp, có người nghiện thơ tranh. Đại nhân đều chẳng ham mấy thứ ấy, đại nhân ấy à…” Tịch Tà tự nhiên ngồi lên ghế khách, “thích tiếng thơm một đời, sau khi chết có một thụy hiệu hay, có đúng không ạ?”
Ngô Tái Dư bị hắn mỉa mai trúng tim đen thì sững sờ trong chốc lát mới nổi giận nói: “Lớn mật.”
“Tiểu Thuận Tử, Ngô đại nhân không nhận món quà này của chúng ta, con hãy mờ danh mục quà tặng ra để Ngô đại nhân nhìn thử.”
Tiểu Thuận Tử cầm trục cuốn trong tay chậm rãi mở ra. Ngô Tái Dư mới vừa nhìn thấy hai chữ “Đồng châu” to, khóe miệng đã co giật. Đợi năm chữ “Đồng Châu án cầu vàng” hiện ra hết trước mắt, ông ta không kìm được mà đứng lên, cướp lấy trục cuốn trong tay Tiểu Thuận Tử, xé mấy cái cho nát vụn.
“Ôi!” Tịch Tà che mặt đau lòng mà hô, “Đại nhân, sao nô tỳ lại không biết chữ? Nó là do nô tỳ mất cả một buổi chiều mới viết xong đấy…”
Ngô Tái Dư cố tỉnh lại: “Tôi không rõ ý của anh.”
“Không rõ?” Tịch Tà nói, “Đại nhân dựa vào vụ án này mà nổi danh bốn bể, có thể bước lên viện Đô Sát, sao lại quên mất nhanh như vậy? Tiểu Thuận Tử, giúp đại nhân Đô ngự sử nhớ lại nào.”
“Mười lăm năm trước, cũng chính là năm Thượng Nguyên thứ mười thời tiên đế, đại nhân Đô ngự sử còn nhậm chứ tri phủ ở Đồng châu. Tháng Mười một năm ấy, phát hiện thi thể của một người đàn ông dưới cầu vàng trong thành Đồng châu, túi tiền đồ trang sức đều còn cả, nhận định là thương nhân bán tơ lụa Lữ Mỗ. Goá phụ Giả thị xác nhận Quản Song Hỉ giàu có ở địa phương vì cạnh tranh đất nông ngoại ô của Lữ Mỗ mà nhiều lần sai người tới cửa uy hiếp. Ngô đại nhân bèn tìm bắt Quản Song Hỉ đến tra hỏi, dùng hình bức cung. Lúc đầu Quản Song Hỉ liều chết không nhận tội nhưng hình phạt quá dã man, cuối cùng nhận là mình thuê người sát hại Lữ Mỗ. Quản Song Hỉ giàu nhất Đồng châu, có quan hệ cá nhân rất tốt với đám quyền cao chức trọng chốn ấy như bố chính sứ Thượng Chi Nhân. Thượng Chi Nhân nhiều lần sai người tới Đồng châu cầu xin, Ngô đại nhân công chính nghiêm minh luôn từ chối thẳng thắn, còn tố cáo lên triều đình làm Thượng Chi Nhân và mười một quan viên địa phương đều bị cách chức điều tra, Quản Song Hỉ bị xử tội chết, chỉ đợi sau thu sẽ chém đầu.”
“Công chính nghiêm minh, không sợ quyền quý, đúng là rường cột triều đình!” Tịch Tà hết sức cảm thán.
“Tháng Hai năm sau, bổ đầu Tưởng Tiểu Điền của nha môn tri phủ Đồng châu bắt được tên chuyên cầm đao cướp hàng là Kim A Thuận ở trong thành. Dưới sự tra khảo của Tưởng Tiểu Điền, Kim A Thuận chẳng những cung khai tội trạng hiện hành mà còn thú nhận năm ngoái thấy hơi tiền nổi máu tham ở cầu vàng, giết chết Lữ Mỗ, vì lúc ấy có người qua cầu nên không kịp cướp đi tiền tài của Lữ Mỗ mà chạy trốn ngay. Tưởng Tiểu Điền bẩm báo dựa theo đúng khẩu cung của Kim A Thuận cho tri phủ Ngô đại nhân. Ngô đại nhân nhờ án này mà nổi danh trong triều đình và dân gian, tháng Ba sẽ phải đến viện Đô Sát nhậm chức, lúc này há để cho Quản Song Hỉ lật lại bản án? Ngô đại nhân hứa cho số tiền lớn, giật dây Tưởng Tiểu Điền đánh chết Kim A Thuận ở trong ngục rồi tự mình đầu độc cho Tương Tiểu Điền chết, lúc này mới vào kinh thành nhậm chức.” Tiểu Thuận Tử mồm miệng lanh lợi, nói liền một mạch mặc cho Ngô Tái Dư nhiều lần hô to “câm miệng”.
Tịch Tà hỏi: “Quản Song Hỉ thì sao?”
Tiểu Thuận Tử đáp: “Mùa thu năm Thượng Nguyên thứ mười một, bị xử chém đầu ở Đồng châu rồi ạ.”
Tịch Tà gật đầu nói: “Từng nghe thủ đoạn của đại nhân Đô ngự sử, để đạt được danh tiếng của mình mà ngay cả chức quan của con trai ruột, đại nhân đô ngự sử cũng có thể cách hết, đày đi sung quân, huống chi là một tay thổ hào? Thành thật mà nói, nô tỳ thực sự rất ngứa mắt kẻ thích mua danh trục lợi như đại nhân.”
Cả người Ngô Tái Dư lẩy bẩy, run môi nói: “Nói vô căn cứ, nói vô căn cứ!”
Tịch Tà thở dài: “Nếu như nô tỳ sinh sớm hơn vài chục năm, lúc ấy may mắn hầu hạ đại nhân thì chắc chắn sẽ thay đại nhân làm trò giết người diệt khẩu một cách triệt để. Nói đi nói lại, mấy năm nay Ngô đại nhân cũng vất vả, sau này tích phúc dưỡng sinh, tìm vài văn thần võ quan dễ bắt nạt để tố cáo, giải sầu thì cũng thôi. Lúc này nô tỳ xin đại nhân bớt hao tâm.” Hắn hoàn toàn không để ý đến vẻ mặt bi thảm của Ngô Tái Dư, cười nói, “Tới lâu như vậy, trà cũng không được một chén, giờ bưng trà tiễn khách, trà này là đại nhân bưng hay là nô tỳ bưng đây?” Dứt lời đứng dậy ra ngoài.
Tiểu Thuận Tử quay đầu than thở: “Sắc mặt Ngô đại nhân không tốt, đại nhân phải bảo trọng đấy, đại nhân có gì sơ xuất thì thầy của nô tỳ khó xử lắm.”
Đêm đã khuya, trong cung Từ Ninh chỉ có phòng ngủ của thái hậu vẫn thấp thoáng ánh đèn. Khang Kiện cẩn thận duỗi hai chân đã tê dại, cố chấp nằm rạp người dưới cửa sổ, cắn chặt răng, chỉ sợ hơi buông lỏng thì sẽ khiến răng hàm trên hàm dưới va vào nhau mà phát ra tiếng. Tuy giọng Hồng Tư Ngôn thấp nhưng mỗi một chữ đểu khiến cậu ta kinh hồn táng đởm.
“Sáng nay hắn vẫn yên lành làm nhiệm vụ ở cung Càn Thanh, buổi chiều còn rời cung đến nhà Ngô Tái Dư một chuyến.”
“Vậy tức là không thành công rồi.” Thái hậu nói, “Chẳng lẽ có tên nô tài nào tiết lộ tin tức?”
Khang Kiện rùng cả mình.
Bên trong có tiếng châu ngọc chạm nhau, chắc là Hồng Tư Ngôn đang dùng hai tay nhẹ nhàng chải đầu cho thái hậu. “Không phải đâu ạ.” Hồng Tư Ngôn nói, “Người của viện thái y nói, tối hôm qua có một thái giám nhỏ đi ra từ trong cung, hấp ta hấp tấp gọi Trần Tương đi.”
“Chẳng trách hắn không chết.”
“Theo nô tỳ thấy, việc này cũng đơn giản. Thái hậu hãy gọi Tịch Tà tới, tùy tiện tìm một nguyên nhân, đánh một trận đến chết là xong.”
“Cách thì có nhưng không đến mức vạn bất đắc dĩ thì quyết không muốn đối chọi với hoàng đế ở ngoài sáng. Triều thần sẽ ra sao? Các phiên vương sẽ thế nào?”
Hồng Tư Ngôn than thở: “Chủ nhân muốn chú ý đến hai bên con trai và nhà mẹ đẻ, thực sự là khó càng thêm khó.”
“Bọn họ vội vã xung đột vũ trang. Hừ, đợi ta chết đi!”
Khang Kiện chỉ nghe Hồng Tư Ngôn phì cười, đột nhiên có một bàn tay lạnh như băng từ phía sau che miệng cậu lại. Khang Kiện hồn xiêu phách lạc, xoay mặt lại nhìn, Tịch Tà đang để thẳng ngón tay trắng như tuyết trên môi, mỉm cười với cậu. Khang Kiện gật đầu, lặng lẽ đi theo Tịch Tà. Hồng Tư Ngôn còn đang nói ở bên trong: “Thái hậu nghìn thu vạn tuổi, nói lời như vậy không hiệu nghiệm.”
Hai người ra khỏi cung Từ Ninh, cách đó không xa là vườn hoa Từ Ninh phía bắc, mấy hòn non bộ lung linh cao vót. Tịch Tà đi vào trước, Khang Kiện theo vào, bổ nhào xuống đất rồi ôm lấy chân Tịch Tà khóc không thành tiếng: “Sư ca, em có lỗi với anh.”
Tịch Tà “xuỵt” một tiếng: “Em làm cái gì vậy? Đứng lên mà nói.”
Khang Kiện lắc đầu: “Em biết có người muốn hại sư ca, em muốn mật báo cho sư ca nhưng lại không dám. Em, em…” Khang Kiện không nhịn được muốn nghẹn ngào khóc nức nở nhưng lại không dám cất tiếng trong đêm khuya vắng vẻ, bèn che mặt thút thít không ngừng.
Tịch Tà vỗ về rằng: “Chuyện này không liên quan tới em, là rầy rà do sư ca tự gây nên. Không phải em đã tới viện Cư Dưỡng ư? Lòng em lo lắng cho anh, anh lại không biết sao?”
Khang Kiện kéo tay Tịch Tà nói: “Em vỗn tưởng cô nương Minh Châu ở đó cả ngày, những người kia không thể thừa cơ, đâu ngờ thái hậu lại gọi nàng đi. Sư ca, anh thực sự không sao ư?”
Tịch Tà cười nói: “Không phải anh vẫn yên lành đó à? Sao em vẫn thành thực như trước vậy? Mau đứng lên.”
Khang Kiện lau nước mắt, vẫn quỳ trên mặt đất: “Sư ca, em không thể ở trong hoàng cung này nữa rồi.”
Tịch Tà kéo cậu lên: “Nói lời ngốc nghếch gì thế? Người như chúng ta mà rời khỏi cung đình thì có thể đi đâu chứ? Em mới hai mươi tuổi, có thể có bao nhiêu của cải để cho em tiêu dao bên ngoài? Em mà đi thì chẳng phải mấy sư ca sẽ bị em liên lụy đến chết ư?”
“Em từng nghĩ rồi, cùng lắm cạo đầu đi tu…”
Tịch Tà sẵng giọng: “Câm miệng, chuyện này tuyệt đối không được. Cũng may tối nay anh tới, bằng không không biết em làm chuyện ngu xuẩn gì.” Nói rồi rút khăn tay từ trong tay áo ra đưa cho Khang Kiện, “Lau mặt đi. Vóc dáng còn cao hơn anh rồi, thế mà vẫn không có tiền đồ gì cả.”
Khang Kiện bị hắn quát thì nín khóc, nhìn khuôn mặt lạnh nhạt của hắn thì hơi bình tĩnh lại. Tịch Tà bảo: “Anh tới là để chỉ cho em một con đường sống. Từ nay về sau, cứ coi như hai ta chưa từng có tình cảm sư huynh đệ, dù thái hậu muốn làm gì, em cũng đừng xen vào, cũng đừng dò la, lại càng không được báo tin cho anh. Biết càng ít thì sống càng lâu.”
“Sư ca!”
Tịch Tà cười nói: “Em yên tâm, giờ mỗi ngày sư ca đểu ăn cùng hoàng thượng, lẽ nào lại có kẻ bỏ độc vào trong bát của hoàng thượng? Dầu có người kiên quyết ám sát, sư ca cũng chẳng coi chúng ra gì đâu. Nhiều nhất là anh không may mắn bị chúng bẫy chết cũng là bản thân anh xui xẻo, em tuyệt đối không được lội vào vũng nước đục này. Em là học trò cuối cùng của thầy, lúc sắp đi thầy đặc biệt dặn dò mọi người chăm sóc cho em, nếu em có chuyện bất trắc thì anh còn mặt mũi nào xuống đất gặp thầy? Trở về đi.”
Tịch Tà xoay người đi mất, bị Khang Kiện kéo tay áo lại: “Vì sao từ trước đến giờ đều là sư ca chăm sóc em? Từ nhỏ, có đồ nào dùng, có thức nào ăn mà không phải do sư ca cho em? Có lần nào không phải sư ca chịu đòn thay em? Nay sư ca nói như vậy, đúng là coi em như súc sinh không tim không phổi ư?”
Tịch Tà sầm mặt lại: “Em cho rằng trưởng thành rồi thì có thể tạo phản à? Có thể nói ra như vậy à?” Thấy Khang Kiện tỏ vẻ bi thương, hắn lại nhẹ nhàng nói, “Trong sư huynh đệ ta chẳng mấy ai có bụng dạ tốt đẹp, em là người lương thiện, ắt có thể sống lâu trăm tuổi, trước sau vẹn toàn, ngày sau mọi người còn phải nhờ em thắp hương đấy. Về đi thôi!” Hắn cười một cách thoải mái, nhảy ra khỏi núi đá đi về hướng bắc, chỉ để lại Khang Kiện nắm chặt khăn tay, một mình trăn trở suy nghĩ.
Thân pháp của Tịch Tà nhanh như sao băng, cảnh vật trước mắt như bay, chẳng bao lâu đã đến trước cửa viện Cư Dưỡng. Minh Châu vẫn đang đợi, thấy hắn bình an trở về thì tiến lên đón, hỏi: “Thành công rồi ạ?”
Tịch Tà lập tức xóa đi vẻ mặt biết ơn, đau thương của Khang Kiện ra khỏi tim, cười nói: “Đợi xem thôi.”
Lần này Tịch Tà bị người ta đầu độc nên đã hết sức cẩn thận trong chuyện ăn uống. Ban ngày ở cung Càn Thanh, hắn đều ăn món mà hoàng đế thưởng cho, nếu không thì lại ăn cùng Cát Tường và Như Ý. Trong viện Cư Dưỡng cũng đã đổi hết thành đũa bạc, Tiểu Thuận Tử không rời viện bất kể ngày đêm để ngừa kẻ khác thừa cơ. Phàm là đồ ăn, nước trà đều do Minh Châu nếm thử trước rồi mới dâng cho Tịch Tà dùng. Dù Tịch Tà không muốn nhưng khó ngăn nổi sự kiên trì của Minh Châu nên đành mặc nàng.
Cẩn thận như vậy, hơn một tháng liền trời yên biển lặng, các đại thần trong triều cũng đều được đút lót số tiền lớn hết rồi. Hắn được hoàng đế hết sức tin tưởng, lại có quan hệ cá nhân rất tốt với Thành Thân vương, cộng thêm việc giỏi đoán ý người, chấp hành lễ nghĩa rất mực cung kính. Bởi vậu quần thần càng không nhiều lời, mỗi ngày gặp ở cung Càn Thanh thì đều gật đầu thăm hỏi hắn trước, không lâu sau đã nổi tiếng bên ngoài là tổng quản áo xanh.
Lúc này một tháng kỳ hạn thăm viếng người thân của tiến sĩ khoa võ năm nay đã đầy, đều về bộ binh báo danh. Lục Quá thao lược hơn người, được bộ binh chọn làm quan từ lâu. Bốn mươi người nhóm Du Vân Dao, Úc Tri Thu được điều vào trong doanh thị vệ hoàng cung, do thống lĩnh thị vệ Hạ Dã Niên và Khương Phóng phân công. Bốn mươi bốn người còn lại thì nhậm chức ở ty binh mã ngũ thành trước.
Giấy không gói được lửa, Tịch Tà đã điều tra rõ chuyện “bức tranh Cửu Ca” của Minh Châu được Đổng Lý Châu mua bằng ngàn vàng để biếu Đông vương lại chuyển đến chỗ Hạ Dã Niên từ lâu, đang tìm một cơ hội để báo cáo cho hoàng đế. Hoàng đế đã sinh cảnh giác với Hạ Dã Niên, biết gã vốn có cấu kết với Đông vương nên từ năm ngoái đã thường xuyên cử gã ra khỏi cung, lại vì vướng mắc về thế tử Đỗ Mẫn của Đông vương nên càng không để gã bảo vệ thái hậu lên Thượng Giang. Hạ Dã Niên làm quan nhiều năm, há lại không biết tránh hiềm nghi vào thời điểm này, cứ cáo bệnh ở nhà. Vậy nên lúc mở tiệc ở doanh thị vệ chiêu đãi người mới chỉ có một mình Khương Phóng làm chủ trì.
Nghĩ đến hôm sau đã phải vào hoàng cung làm quan, đám thanh niên ai nấy đều hưng phấn hồi hộp, mặt mày có vẻ sung sướng. Hai người trước cửa đột nhiên vang tiếng hoan hô, thì ra là trạng nguyên Lục Quá khóa năm nay cũng được mời dự, tới đúng giờ.
Khương Phóng đi ra khỏi phòng, mọi người tiến lên hành lễ. Khương Phóng cười nói: “Hôm nay là ngày tốt của các anh, chúng ta đều là kẻ học võ, chớ tỏ vẻ nho nhã làm gì.” Đoạn nói với người làm, “Mở tiệc!”
Mọi người đều cất tiếng cười to, lần lượt ngồi vào vị trí, rót rượu chúc nhau, cùng tỏ chí lớn. Ở mỗi chỗ ngồi, Khương Phóng đều rót rượu một lần, vỗ tay lia lịa, mọi người im lặng nghe anh ta nói: “Lấy ra đây.”
Bốn gã sai vặt mang hai cái bàn ra, trên che gấm đỏ nên không trông thấy là cái gì. Khương Phóng bảo: “Hôm đó chúng ta đều có mặt, biết anh trạng nguyên và thám hoa vẫn chưa phân cao thấp. Hôm nay đại hỉ, không thích hợp động hung khí nữa, chỉ xem tương lai ai trong các anh lập được nhiều công trên chiến trường hơn, công tích lớn hơn, chớ phụ hai món vũ khí tốt này.” Anh ta giơ tay lên vạch gấm đỏ ra, chính là hai cây cung lớn mạnh.
Lục Quá và Úc Tri Thu bèn vội vàng đứng lên, vừa định từ chối thì bị Khương Phóng quát: “Trong mắt các anh rõ ràng nói là rất ưa thích, chớ vờ vĩnh trước mặt ta. Hai cây cung này, một ‘nhân’, một ‘nghĩa’, không phân ra anh em. Các anh cũng nên có tình nghĩa anh em như vậy, tương lai kề vai chiến đấu trên sa trường, cùng trừ Thát Lỗ.”
“’Nhân Cung’?” Lục Quá và Úc Tri Thu đã biến sắc. Lục Quá nói: “Lúc đương kim thánh thượng vẫn còn là hoàng tử đã gặp phải mãnh hổ ở trên Thượng Giang cùng Thành Thân vương, lúc ấy có vị tướng quân bắn tên tới cứu, không ngờ lại kéo gãy hai cây cung mình dùng, tiên đế khen ngài ấy dũng mãnh nên sai người chế tạo riêng hai cây cung mạnh có một không hai, dùng tên của hai vị hoàng tử để đặt rồi ban thuởng cho vị tướng quân này. Thì ra…”
Khương Phóng lại ngạc nhiên: “Các anh biết à?”
Mọi người ngồi đó cười to. Úc Tri Thu nói: “Thưa đại thống lĩnh, dù việc này chưa truyền lại như sử nhưng cũng là chuyện mà con em võ tướng nghe nhiều nên thuộc. Có điều đại thống lĩnh không thích khoe khoang, không ai biết vị tướng quân kia chính là đại thống lĩnh thôi.”
Lục Quá dùng tay vuốt dây cung, nói: “Được đại thống lĩnh ưu ái, Lục Quá cung kính không bằng tuân mệnh, xin nhận thưởng.” Rồi cùng Úc Tri Thu quỳ rạp xuống đất, song song tiếp nhận.
Khương Phóng nhìn khuôn mặt bừng bừng sức sống của họ, biết lại là một đời tài năng mới quấn vào trong vòng xoáy phân tranh của triều đình. Trong thành cung, khắp nơi đều là cạm bẫy dối dan, trong những người trẻ tuổi này có bao nhiêu kẻ có thể lên mây xanh, lại có bao nhiêu người sẽ chết trong hỗn độn. Khương Phóng không nén được tiếng thở dài.
Những một trận hoan hô của những người trẻ có thể xua đi rất nhiều phiền muộn của Khương Phóng. Tối ấy thoải mái chè chén, mãi đến khi sắp qua giờ Tuất, mọi người cáo từ, Khương Phóng lại dặn ngày mai phải chỉnh đốn đội ngũ ở thao trường của viện Thượng Tứ[1], tuyệt đối không được chậm trễ, lúc bấy mới tan.
Để phân công đám đông đến các cửa các nơi, lại tiếp tục xem võ nghệ của mọi người nên Khương Phóng tự mình tuyển ra hai mươi người võ công xuất chúng hiện đang nhậm chức thị vệ, muốn họ thử tài với người mới. Lúc thi đình, kiếm pháp của hai người Du Vân Dao, Úc Tri Thu cao nhất nên giờ trở thành mục tiêu. Hạ Thiên Khánh tiến lên cười nói với Du Vân Dao: “Bảng nhãn! Thế nào? Nể mặt chỉ giáo mấy chiêu nhé?”
Du Vân Dao không thích tranh đấu với người khác, lại biết hắn ta là anh em ruột của của tổng quản thị vệ Hạ Dã Niên, thấy ánh mắt hắn ta không có ý tốt bèn từ chối: “Tại hạ khoa chân múa tay, làm sao có thể lọt vào mắt của Hạ võ quan? Xin Hạ võ quan giơ cao đánh khẽ, tại hạ đỡ bị bêu rếu trước mặt mọi người.”
Hạ Thiên Khánh nói: “Bảng nhãn thật là kiêu căng!”
Khương Phóng cách không xa, bảo Du Vân Dao rằng: “Tiền bối muốn chỉ giáo anh mấy chiêu, anh còn chối từ cái gì?”
Du Vân Dao đành chịu, lấy kiếm từ trên giá binh khí, thi lễ và nói: “Tại hạ đắc tội, xin Hạ võ quan nhẹ tay cho.” Đoạn lấy lễ của hậu bối mà tấn công một chiêu trước.
Hạ Thiên Khánh dùng đao, đánh ra theo thức “cử hỏa thiêu thiên”. Một chiêu vừa xuống, Du Vân Dao liền biết hắn ta trời sinh có sức lực lớn nhưng gốc rễ nội lực lại nông, không tiện lấy nội lực liều với hắn ta. Kiếm của nhà họ Du thay đổi trong nháy mắt, lực sinh từ tim, chiêu kiếm hơi lui lại, ung dung hóa giải sức mạnh của hắn ta. Khinh công của Hạ Thiên Khánh cũng không tệ, uốn người lên di chuyển để đấu với anh ta. Kiếm Du Vân Dao chỉ tung bay bên cạnh mình, lúc binh khí đụng nhau thì thi triển tâm pháp chữ niêm, đẩy đơn đao của hắn ta ra, vừa không thể gây tổn thương cho hắn ta, lại không tìm được cách làm hắn ta biết khó mà lui nên giằng co không dứt mất một lúc.
Úc Tri Thu bên kia cũng bị người khác tranh nhau đánh, kiếm chưa ra khỏi vỏ đã đã đối thủ ngã lăn trên mặt đất. Tình cảm của đám người Tiền Việt, Trương Xuất, Hoàng Đản rất tốt, một người chịu thiệt thì mọi người đều căm. Úc Tri Thu cười nói: “Các anh không phục thì cứ lên cả đi.” Gã lấy một địch ba màmặt không đổi sắc, còn tranh thủ nói với Du Vân Dao: “Người kia không phải đối thủ của anh Du, sao không sớm đuổi hắn đi?”
Lúc này Hạ Thiên Khánh đã kiệt sức, thở phì phò như trâu, thấy Du Vân Dao vẫn không đổ một giọt mồ hôi, còn nhàn hạ nói: “Hạ võ quan, nếu không phân được cao thấp thì sao không dừng tay tại đây?” Hạ Thiên Khánh vốn muốn nói hai câu sĩ diện, đã định thu chiêu thì lại nghe Khương Phóng hét lớn một tiếng: “Tất cả dừng tay!”
Tiếng Khương Phóng như sấm, Hạ Thiên Khánh gần anh ta nhất, sợ đến mức tay run lên, suýt làm rơi đơn đao xuống đất. Du Vân Dao nhanh tay, dùng trường kiếm đỡ ở trên sống đao, cười nói: “Đa tạ đã nhường.”
Chẳng biết từ lúc nào đã có hai nội thần đến viện Thượng Tứ, một người mặc quần áo trong cung màu hoa hạnh phía trước chắc chắn là thái giám đứng đầu, một thái giám nhỏ mặc áo xanh theo phía sau. Hai người chắp tay hành lễ với Khương Phóng ở dưới hiên, Khương Phóng cũng kính cẩn khách sáo. Những thị vệ lanh lẹ đã chuyển ghế đến và pha trà, mời hai người ngồi xuống. Thái giám áo màu hoa hạnh kia cười nói the thé: “Không dám nhận, không dám nhận. Làm phiền, làm phiền rồi.” Đoạn nói nhỏ vài câu bên tai Khương Phóng, Khương Phóng bèn nói: “Du Vân Dao, Úc Tri Thu qua đây.”
Hai người đến gần, quan sát bên trong. Dưới hiên rủ màn trúc, hai nội thần đều nấp trong bóng nên nhìn không rõ, chỉ cảm thấy thái giám áo màu hoa hạnh kia ngồi yên, rất có phong độ bậc đại tướng. Khương Phóng nói: “Hai người các anh bắt cặp biểu diễn đi.”
Du Vân Dao và Úc Tri Thu hết sức khó xử. Từ hôm thi hội, hai người đã biết bản lĩnh của đối phương rất giỏi, vả lại gần đây luôn ở cạnh nhau, đã sinh ra cảm giác chung chí hướng. Ở đây chỉ có hai nội thần đến xem trò vui, sao có thể khiến họ liều mình đọ sức? Hai người cùng suy nghĩ, chỉ biến một cuộc do tài thành múa kiếm, nhảy trên nhảy dưới, hết sức lộn xộn khó coi.
Thái giám áo hoa hạnh bên trong mành nhìn một hồi, cười thất thanh, “Đại thống lĩnh, đây chính là người nổi bật trong các tiến sĩ khoa võ năm nay đó ư? Sao mới đến chỗ đại thống lĩnh chưa được mấy ngày đã thành tốt nước sơn rồi?”
Khương Phóng cười nói: “Họ còn trẻ không hiểu chuyện, không biết thể hiện bản lĩnh thật ở trước mặt đại gia.”
Úc Tri Thu thấp giọng lẩm bẩm một câu với Du Vân Dao: “Một tên thái giám thì hiểu gì?”
Bên trong mành có người nói: “Người mới nói là Úc thám hoa à? Mời hai vị tiến lên một bước để nói chuyện.”
Úc Tri Thu và Du Vân Dao đều kinh hãi, đều nghĩ câu vừa rồi rất nhỏ, cách cả hành lang, không biết sao lại bị người trong mành nghe được, chỉ đành ngượng ngùng tiến lên. Màn trúc vừa vén ra, thái giám áo xanh kia bèn đi ra từ bên trong, ho vài tiếng mới nói: “Chức thị vệ liên quan đến an nguy của thánh thượng, đến họa phúc của xã tắc, không thể lười biếng một mảy may. Người bên cạnh vạn tuế gia phải là kẻ hầu hạ hết lòng hết dạ. Dù là người chí thân của các anh, chỉ cần gây nguy hiểm cho vạn tuế gia mảy may, các anh cũng phải dốc hết sức, liều cả tính mệnh ra mà giết. Nay các anh nương tay vì tình nghĩa cùng khóa thì mai rày làm sao vạn tuế gia có thể gửi gắm tính mạng mình cho các anh?” Tuy hắn ho dữ dội làm hỏng tiếng, khiến âm thanh hơi khàn nhưng vẫn tao nhã, êm tai khôn tả.
Úc Tri Thu thấy tuổi hắn không đầy hai mươi, lại là quan hoạn không có phẩm cấp thì khinh thường trong lòng, vừa định mở miệng phản bác thì dường như thái giám áo xanh đó đã biết suy nghĩ của gã, ánh mắt lộ ra ý bảo ngừng. Úc Tri Thu như thể bị băng thình lình đâm vào mặt, không dám nhìn thẳng, cụp mắt không nói.
Thái giám áo xanh ấy cười khẩy một tiếng, nói: “Một tên nội thần nhỏ nhoi như tôi không hiểu gì cả, nếu không phải hoàng thượng phái đi thì sao sư huynh đệ chúng tôi lại đến nơi này làm các vị phiền chán? Nô tỳ tặng các vị một câu: Hoàng cung là chốn đầm rồng hang hổ, trong kiếm pháp núi cao còn có núi cao hơn, các vị biết vươn lên mới tốt.” Hình như hắn đưa tay trỏ vào bên hông Úc Tri Thu, trường kiếm bên hông Úc Tri Thu leng keng nhảy ra ngoài vỏ. Thái giám khẽ phất tay áo xanh một cái đã cầm kiếm nơi tay, thân kiếm phản xạ ánh mặt trời xán lạn, ánh lên khuôn mặt trông như trong suốt của hắn. “Binh khí trong cung đều là vũ khí hiếm có, các anh phải xứng mới được.”
Lúc này thái giám áo màu hoa hạnh đi tới, khuôn mặt đoan trang có vẻ vững vàng ôn hoà, miệng cười nói: “Em mới bao tuổi, hiểu được những gì mà bàn lung tung về kiếm pháp, cũng không biết thẹn.”
Bấy giờ thái giám áo xanh mới cười uyển chuyển, vô cùng đẹp đẽ: “Đại sư ca dạy rất đúng. Về kiếm pháp, tôi còn kém xa lắm!” Cổ tay hắn rung lên, trường kiếm “keng” một tiếng, găm vào trong vỏ, vẫn còn kêu không ngừng.
Thái giám áo màu hoa hạnh thấy hắn lại ho thì quở trách: “Mới giở giời là ho như thế. Biết rõ cơ thể không khỏe cũng không biết giữ gìn. Em bị bệnh gì đấy? Đại thống lĩnh…” Y cười nói với Khương Phóng, “Hai anh em tôi đã thấy thứ nên thấy, cũng nói điều nên nói rồi, không cản trở việc của đại thống lĩnh nữa, xin cáo từ.”
Úc Tri Thu và Du Vân Dao nghẹn họng nhìn trân trân, sững sờ tại chỗ. Thình lình nghe “keng” một tiếng, hông Úc Tri Thu nhẹ đi, không ngờ thanh trường kiếm rung đến mức làm vỏ kiếm nát vụn, rơi xuống mặt đất. Hai người nhìn nhau, hãi hùng biến sắc, đều run hết tay chân, mồ hôi lạnh đầm đìa.
Hạ Thiên Khánh bước lên cười nói: “Chỉ cần là học trò của thái giám Thất Bảo thì đừng nói đến chuyện hoàng thượng tin một bề, dù chưa từng lộ diện ở trước mặt chủ nhân thì tương lai cũng là nhân vật cỡ tổng quản. Ngay cả Khương thống lĩnh gặp sư huynh đệ bọn họ cũng phải tôn trọng mà gọi một tiếng gia. Ngay ngày đầu tiên các anh đã làm mếch lòng hai người. Ha ha, đúng là may mắn của các anh.”
Du Vân Dao chắp tay hỏi: “Xin hỏi Hạ võ quan, hai vị kia là…”
Vì vừa rồi anh ta nương tay không làm Hạ Thiên Khánh mất mặt nên hắn ta mới thành thật nói: “Các anh phiền to rồi, người mặc áo màu hoa hạnh ấy là Cát Tường – thái giám Thượng bảo lĩnh sự bên cạnh hoàng thượng, người áo xanh kia chính là Tịch Tà – tổng quản áo xanh chọn các anh đỗ tiến sĩ thay hoàng thượng đấy.”
Cái tên “Tịch Tà” này cực kỳ vang dội ở trong tiến sĩ khóa năm nay. Hôm thi hội, mọi người cứ phủ phục trên mặt đất, nghe tiếng nói trong trẻo của hắn gọi tên mình. Ngoại trừ Lục Quá ra thì không có ai chú ý đến một quan hoạn áo xanh bên cạnh hoàng đế trông như thế nào, nay gặp mới biết hắn chẳng những võ công cao đến mức nghe mà rợn người, lại còn trẻ tuổi như vậy. Mọi người ồn ào, bàn luận ầm ĩ.
“Đáng tiếc cơ thể hắn không khỏe…” Hồ Động Nguyệt than thở, “Nếu không có thể xin hắn ở lại bộc lộ mấy đường. Cát Tường là sư huynh hắn, ắt hẳn võ công còn cao hơn nữa, chỉ điểm cho chúng ta một hai chiêu đã có thể biết thêm không ít rồi.”
Những lời này lại kích động đến nỗi lòng của Khương Phóng. Anh ta đã không được gặp Tịch Tà nhiều ngày, nay mới biết bệnh của hắn không nhẹ nên mặt có vẻ buồn rầu.
Gần đây quả thực Tịch Tà ho đến khổ sở, không tiện hầu ở trước mặt hoàng đế, từ viện Tứ Thượng về thẳng viện Cư Dưỡng. Trong đường Đông Đại Thiên im ắng không người, chỉ có tiếng ho của hắn vang vọng xung quanh. Rẽ qua sở Bắc Ngũ, qua cửa nguyệt, hắn dừng bước ở sau cửa, xoa ngực mà than: “Sao em không nghe lời anh?”
Người phía sau bước gấp lên mấy bước, thấp giọng nói ở bên tai Tịch Tà: “Hôm nay hoàng hậu, Nghị phi đến cung Từ Ninh thăm hỏi, thái hậu cho mọi người lui ra rồi nói một hồi. Sư ca cẩn thận đấy.” Cậu vội vã nói xong thì đi ngay. Tịch Tà trông bóng lưng cậu, biết sư đệ duy nhất đã rơi vào tròng đúng như mình lường trước. Người đơn thuần giống như Khang Kiện có thể sống trong cung được bao lâu đây? Tịch Tà nghĩ tới đây thì ngực lại quặn thắt.[1] Cơ quan cai quản ngựa dùng trong cung.