Sương mù giăng kín đồng cỏ, vầng thái dương vừa nhú hé lộ tia sáng nhàn nhạt đầu tiên. Một cánh chim chúi đầu bay lướt qua trên hồ, móng chân thoáng đụng phải khóm cỏ rong khiến mặt nước khẽ lay động. Trên thảm cỏ xanh mướt rộng mênh mông văng vẳng tiếng tù và, âm thanh trầm bổng uyển chuyển như nhành liễu trong gió xuân tháng ba.
Hiện đã vào thu nên buổi sớm cực kỳ lạnh, mùa thu ở Hồi Sơn luôn rất ngắn ngủi, tựa như mùa hè vừa qua thì mùa đông đã tới vậy. Các mục dân đều đã sớm vận thêm áo và ủng bông, phụ nữ chuyển sang mặc váy dài, khi đi lại, tà váy đỏ au sẽ xòe rộng như hỏa vân hoa, rực rỡ đến chói mắt.
Bình An và Đa Cát đang điên cuồng thúc ngựa chạy trên đồng cỏ, Thanh Thanh cưỡi trên một chú ngựa nhỏ lông đỏ theo ở đằng sau, to tiếng cổ vũ: “Đa Cát! Cố lên! Cố lên!”
Bình An năm nay mười lăm, đã trổ mã thành một thiếu niên cường tráng, tay chân linh hoạt, bắp thịt săn chắc như một chú báo. Chưa chạy hết một vòng đã bị Đa Cát bỏ xa khiến cậu vừa bực tức vung roi thúc ngựa, vừa quay sang Thanh Thanh đang chạy tới, mắng: “Nha đầu thối! Ai mới là ca ca của muội vậy? Sao có thể tát nước ruộng ngoài như thế hả?”
Thanh Thanh cười tít mắt, làm mặt quỷ với Bình An rồi vụt roi vào mông Tiểu Hồng, chạy theo Đa Cát.
Đa Cát là con trai của một gia đình du mục sống dưới chân Hồi Sơn nhưng lại có dáng vẻ thư sinh như người ở phía Đông đại lục, da trắng mũi cao, ánh mắt hiền hòa, năm nay đã mười sáu tuổi. Cậu nhìn thấy Thanh Thanh chạy đến thì dừng ngựa lại, mỉm cười nói: “Thanh Thanh, chạy nhanh lên, huynh sẽ cản Bình An cho muội.”
“Đa Cát~~~” Xa xa có người dài giọng gọi.
Đa Cát nghe thấy liền ghìm cương ngựa, vẫy vẫy tay với đằng xa rồi nói: “A ma gọi, đi thôi, tới nhà ta.”
“Nhất định là A ma Đa Cát vừa làm xong bánh rán bơ, mau đi thôi, mấy ngày trước tỷ tỷ còn khen bánh rán A ma Đa Cát làm rất ngon nữa.” Thanh Thanh vui vẻ nói.
Đa Cát nghe nói liền cười, “Thế à? Vậy lát nữa hai người nhớ mang một ít về cho đại nhân.”
“Còn cần huynh nhắc sao, ta đã sớm nói với A ma huynh rồi.” Bình An sảng khoái cười nói, nhanh chóng vung roi chạy trước.
“Đỗ Bình An! Huynh chơi xấu!” Thanh Thanh phụng phịu quát lên rồi cũng hối hả thúc ngựa chạy theo. Tiểu Hồng nhìn nhỏ nhưng lại chạy rất nhanh, chỉ một chốc đã đuổi kịp thiếu niên phía trước.
Đa Cát vừa cười vừa điều khiển ngựa thủng thỉnh đi theo sau hai người. Bầu trời xanh ngắt, từng cụm mây trắng lững lờ trôi, bốn phía thơm nồng mùi lúa chín, báo hiệu đã đến mùa thu hoạch, cũng là thời điểm đẹp nhất trên Hồi Sơn.
Đến tối lúc chuẩn bị trở về, người dân trong thôn đã chất đầy đồ ăn lên lưng ngựa của Bình An và Thanh Thanh, đa phần là món ăn dân dã cùng với rượu ủ bằng sữa ngựa, còn có cả bánh rán bơ của A ma Đa Cát làm. Hai chú ngựa nhỏ chở nặng đến nỗi chân đi loạng choạng, Đa Cát thấy thế liền chạy đi đánh một cỗ xe ngựa lại, bảo sẽ đưa bọn họ về. Thanh Thanh nghe vậy thì vui vẻ nhảy cẫng lên, vỗ tay hoan hô.
“Bình An, mấy ngày qua đại nhân ngủ có yên giấc không? Thuốc của Đạt Liệt thúc dùng được chứ?”
Bình An lắc đầu, “Vẫn vậy, tối qua ta thức dậy lúc nửa đêm thấy Mai Hương đang pha trà, đoán chừng đại nhân vẫn chưa ngủ.”
“Hai ngày nay tỷ tỷ đã khá hơn nhiều, không thấy bị ho nữa.” Thanh Thanh cười tít mắt cướp lời, “Thuốc của Đa Cát huynh rất tốt, muội cũng có uống thử, nằm xuống một cái liền ngủ tới sáng.”
“Muội không uống thuốc thì cũng ngủ thẳng đến sáng.” Bình An không nhân nhượng vạch trần muội muội nhà mình, “Thứ gì của Đa Cát mà muội không thấy tốt chứ, ngay cả thuốc cũng thử, mới mười ba tuổi đã đòi gả cho người ta, đúng là không biết xấu hổ.”
Thanh Thanh lè lưỡi, cãi lại: “Việc gì phải xấu hổ chứ, tỷ tỷ từng nói, thích ai thì nên sớm nói ra, tránh cho về sau phải hối hận. Lớn lên muội khẳng định sẽ gả cho Đa Cát, sao phải e ngại.”
Lời lẽ thẳng thắn của cô bé khiến khuôn mặt tuấn tú của thiếu niên lập tức đỏ ửng. Cậu lúng túng khụ một tiếng rồi nói: “Vậy để ta lấy thêm hai cân để hai người mang về cho đại nhân…” Dứt lời liền quay sang Thanh Thanh, “Thanh Thanh, thuốc không thể uống tùy tiện, lúc trước đại nhân rơi vào hồ băng, thân thể nhiễm hàn nên mới phải uống thuốc. Còn muội đang khỏe mạnh, uống thuốc ngược lại sẽ có hại, sau này chớ uống lung tung nữa.”
Thanh Thanh cười híp mắt, gật đầu lia lịa, tựa như Đa Cát nói cái gì cô bé cũng thấy đúng, “Biết rồi, biết rồi.”
Bình An đứng bên cạnh hừ một tiếng, bộ dạng vô cùng xem thường đứa em gái không chút khí tiết này của mình.
Đi đường khoảng hơn một canh giờ thì lên được đỉnh núi, hành cung Nạp Đạt trên đỉnh Hồi Sơn mà Yến Thế Thành xây dựng cho vương phi của mình hiện giờ đã bị bỏ không. Đại nhân ngụ trong một trạch viện nhỏ trên sườn núi, xa xa nhìn lại, tiểu viện lợp ngói xanh theo phong cách cổ nằm giữa tầng trời xanh thẳm mang dáng vẻ vô cùng tĩnh lặng. Có điều, đừng tưởng nó chỉ là một sân viện bình thường, bởi vì chỉ cần không cẩn thận tiến vào sẽ mất mạng.
“Ai đó?” Phía trước đột nhiên có người trầm giọng hỏi vọng lại.
Bình An nhảy khỏi xe ngựa, chạy lên mấy bước nói to: “Hà đại ca đó sao? Bình An đây.”
“Bình An? Sao bây giờ mới về?” Một hán tử trung niên khoảng hơn ba mươi bước ra từ trong bụi cây, đằng sau có vài người cầm xiên sắt ăn vận bình thường, trên tay một người còn xách một con thỏ rừng.
“Đại nhân đã hỏi mấy lần rồi đấy. Tối nay nhìn trời có vẻ sắp mưa, thấy hai người còn chưa trở về nên chúng ta đang định xuống núi tìm đây.” Hà đại ca vừa đi tới vừa nói, nhìn thấy Đa Cát liền cười hỏi: “Có cả Đa Cát nữa này, vết thương của a bá ngươi thế nào rồi?”
“Nhờ tay nghề nối xương của Hà đại ca mà hôm nay tay a bá đã có thể cử động rồi ạ.”
“Đều do lão Mộc Thác không nghe ta, đã nói gấu mẹ đang mang thai rất hung dữ, không thể đụng vào mà.”
Đoàn người vừa đi vừa tán gẫu, dọc đường gặp được thêm mấy nhóm nữa. Những người này chính là chiến sĩ của Tú lệ quân khi trước, hiện giờ đã cởi giáp quy điền*, phần lớn đều xây nhà sống dưới chân núi nhưng vẫn thường ngày thay phiên lên núi canh chừng. Một năm nay trở đi, trên núi yên bình hơn nhiều, tử sĩ Gia Cát gia cũng đã ít dần, không còn điên cuồng như lúc đầu nữa.
*Cởi giáp quy điền: từ bỏ nghiệp binh về làm ruộng
“Đại nhân vừa dùng bữa tối xong, đang nghỉ ngơi ở hậu viện đấy. Hai người vào nhớ nhanh đi chào, đừng để người lo lắng.”
“Biết rồi, Hà đại ca thật là càng lúc càng giống a ma của Đa Cát.” Thanh Thanh bĩu môi phụng phịu. Hà đại ca phì cười, vỗ vỗ đầu Thanh Thanh rồi mang người đi ra ngoài.
Vừa vào sân thì không cần nghĩ cũng biết sẽ nhìn thấy Hạ Tiêu trước tiên, sau lần đại nhân bị đả thương một năm trước, Hạ Tiêu liền chuyển vào sống trong viện, luôn ở trước cửa phòng đại nhân canh chừng cả ngày lẫn đêm.
Thanh Thanh từng nói với Đa Cát là cô bé và Bình An chưa bao giờ bắt gặp Hạ Tiêu ngủ cả. Có lần cô bé đến tìm đại nhân, nhìn thấy Hạ Tiêu nhắm mặt dựa vào tường thì định lặng lẽ đi qua, ai ngờ còn chưa vào trong đã bị Hạ Tiêu kéo lại, nói đại nhân ngủ rồi, có chuyện gì mai hãy nói. Lúc trước Đa Cát còn không tin, nhưng sau mấy lần đến đây thì dần phát hiện, hình như cậu cũng chưa từng thấy Hạ Tiêu chợp mắt, mà cho dù có đang lim dim thì chỉ cần có người hơi nhích lại gần cũng sẽ lập tức tỉnh lại.
“Hạ thống lĩnh!” Nhìn thấy Hạ Tiêu, Bình An liền trở nên vô cùng lễ phép, cung kính gọi.
Hạ Tiêu gật đầu, thấy Đa Cát thì nở một nụ cười hiếm thấy, hỏi: “Đa Cát đến à, thương thế của a bá ngươi thế nào rồi?”
“Đã có thể cử động, cám ơn Hạ thống lĩnh quan tâm.”
Hạ Tiêu ôn hòa nói: “Có thể cử động thì tốt rồi, đại nhân hôm nay cũng mới hỏi thăm, còn bảo ta đi dặn dò a bá ngươi đừng mạo hiểm đi giết gấu lấy mật nữa. Thân thể đại nhân đã khá hơn, thuốc lần trước ngươi mang đến rất hiệu quả.”
“Ừ, ta sẽ về nói cho a bá biết.”
Hạ Tiêu gật đầu nói: “Vào đi, hai đứa tiểu quỷ các ngươi, ra ngoài cũng không biết về sớm một chút, khiến đại nhân phải lo lắng hỏi han nhiều lần.”
Thanh Thanh làm mặt quỷ rồi đẩy cửa viện ra chạy vào, Bình An và Đa Cát cũng đi theo. Trời đã tối hẳn, vầng trăng tròn vành vạnh dần lên cao. Không khí trên núi lạnh hơn nhiều so với chân núi, trong sân có trồng một gốc mai trắng, tuyết chưa rơi mà nó đã nở rộ, hương hoa trong trẻo tỏa ra bốn phía, dưới ánh trăng bạc, sắc trắng của cánh mai như hòa làm một với lớp tuyết trên mặt đất.
“Tỷ tỷ!” Còn chưa vào trong thì Thanh Thanh đã lớn tiếng gọi ầm ĩ.
Cửa phòng bị kéo sang một bên, Mai Hương thò đầu ra nhìn, thấy là đám Bình An thì cố ý sầm mặt xuống, di di ngón tay chỉ lên trán Thanh Thanh, mắng: “Nha đầu thối, muộn thế này mới chịu bò về đó à? Đúng là càng lớn càng hư, về sau không biết có ai còn dám lấy muội nữa không.”
“He he, chắc chắn xuất giá trước cả Mai tỷ nữa cơ.” Thanh Thanh ôm trán cười hì hì.
Mai Hương cười mắng: “Nha đầu miệng lưỡi trơn tru.”
Mai Hương chính là nô lệ ở thành Cống Duyệt được đại nhân mang về. Khi đó vì không muốn làm thiếp cho một lão quý tộc, nàng chạy trốn rồi bị bắt lại, suýt nữa đã bị đánh chết, được đại nhân cứu thoát liền đi theo đại nhân lên Hồi Sơn đến tận giờ. Thời gian Mai Hương đi theo đại nhân không lâu nhưng bởi vì nàng là nữ, không những tháo vát mà còn hết sức trung thành, tính tình lại rất tốt, cho nên ngoài Hạ Tiêu ra, nàng đã trở thành người thân cận nhất bên cạnh đại nhân.
“Vào đi, đại nhân chờ mấy đứa đã lâu rồi.” Đóng cửa phòng lại, Mai Hương liền mang ba người vào trong.
Gian phòng này được xây bằng đá đỏ nên có khả năng chắn gió rất tốt. Bày biện bên trong vô cùng đơn giản gọn gàng, không có đồ vật trang hoàng xa hoa gì, chỉ có mấy chậu hoa cỏ mà thôi. Thúc thúc của Đa Cát trước kia là thuộc hạ dưới trướng của Ô tiên sinh, về sau bị thương nên mới hồi hương, cũng là một người có tri thức. Đa cát từng theo thúc thúc mình đến phía Đông Biện Đường học hỏi thi từ văn thư, cũng có chút hiểu biết về hoa cỏ, nhưng cậu nhìn mấy chậu hoa kia một hồi vẫn không nhận ra là cây gì, không khỏi có hơi kinh ngạc.
Mai Hương bắt gặp vẻ mặt của cậu thì ha ha cười nói: “Khẳng định là chưa nhìn thấy bao giờ, có đúng không? Đây đều là do đại nhân phái người đến Đại Hạ mang về đấy. Bình thường sẽ nuôi trong vườn, hôm nay trời lạnh nên mới chuyển chúng vào đây. Đại nhân nói, kỹ thuật trồng này gọi là chiết cành, không phải ai cũng trồng được ra hoa như vậy đâu.”
Cửa thư phòng được đẩy ra, một đôi mắt trong suốt liền nhìn sang. Sở Kiều mặc áo bằng vải bông trắng, la quần màu xám nhạt, trên đầu cài một đóa phù dung được tết bằng lụa, vừa nhìn liền biết là tác phẩm của Mai Hương. Nàng nhìn Sở Kiều cả ngày luôn mặc y phục toàn trắng nên luôn tìm cách điểm thêm trang sức cho nổi bật một tí. Sở Kiều thấy nàng có ý tốt nên cũng không nhẫn tâm cự tuyệt, mặc nàng trang điểm cho mình.
“Về rồi à.” Nhìn thấy bọn họ, Sở Kiều đặt sách xuống, mỉm cười đưa tay ra.
Thanh Thanh lập tức chạy tới nhào vào lòng nàng, nũng nịu nói: “Tỷ tỷ, Thanh Thanh nhớ tỷ tỷ chết đi được.”
“Vậy sao? Ta còn tưởng muội gặp được Đa Cát đã vui đến quên trời quên đất rồi chứ.” Sở Kiều mỉm cười trêu.
Trước mặt người khác, Thanh Thanh luôn có bộ dáng cười cợt ta đây không chấp, duy chỉ ở trước mặt Sở Kiều, chỉ bị nàng tùy tiện trêu một câu, tiểu nha đầu hiếu động liền sẽ lập tức đỏ ửng mặt.
Bình An cười nói: “Đại nhân phải trừng trị con bé thật nghiêm vào.”
Năm đó, sau khi Sở Kiều rời khỏi Bắc Yến quân, Bình An liền dẫn muội muội đi tìm nàng, đến nay cậu vẫn kiên trì gọi nàng ‘đại nhân’ như đám người Hạ Tiêu, không chịu đổi.
Đa Cát đứng ở một bên, có hơi ngây người. Ngày thường cậu cũng coi như là một thiếu niên vô cùng thông tuệ, hiểu biết nhiều, miệng mồm cũng không tệ, nhưng chỉ cần ở trước mặt Sở Kiều là cậu sẽ không tự chủ cúi đầu, tựa như dám liếc mắt nhìn nàng cũng là tội vô lễ. Tuy cúi đầu nhưng cậu cũng thỉnh thoảng tìm cơ hội lén nhìn quanh, giống như chỉ cần đứng ở xa xa nhìn nơi nàng ở cũng rất thỏa mãn rồi.
Sở Kiều trêu Thanh Thanh thêm mấy câu rồi ngẩng lên nhìn Đa Cát, dịu dàng hỏi: “A bá của em đã khỏe hơn chưa?”
Đa Cát cung kính đáp: “Vâng, đã khỏe hơn nhiều, phiền đại nhân phải lo lắng rồi.”
“Sắp đến mùa thu hoạch rồi, mấy ngày nay chỉ có mình a ma em lo toan mọi chuyện trong nhà, ta đã bảo Hạ Tiêu phái người đến hỗ trợ nhà em lúc vụ thu. Em trở về dặn a ma, khi nào bắt đầu thu hoạch lúa mạch thì nhớ báo cho chúng ta một tiếng trước.”
“Vâng, đa tạ đại nhân quan tâm.”
“Tối nay không chừng sẽ có mưa, em đừng xuống núi nữa, ở lại đây ngủ với Bình An một đêm đi. Mai Hương hâm nóng cơm cho các em rồi đấy, đi ăn trước đi.”
Đám người gật đầu lia lịa rồi rối rít đẩy cửa đi ra ngoài.
Không đến nửa canh giờ sau, trời quả nhiên đổ mưa. Mùa thu, trời mưa một trận, nhiệt độ liền đột nhiên giảm xuống rất nhiều. Mai Hương lấy thêm chăn cho hai cậu, còn đặt thêm một chậu than trong phòng. Bình An dễ ngủ, chỉ chốc sau đã ngáy khò khò. Đa Cát nằm trên giường lăn lộn hồi lâu vẫn không ngủ được, đến nửa đêm thì đứng lên mặc y phục vào, đẩy cửa lặng lẽ đi ra ngoài.
Phòng của Bình An ở sát cạnh phòng Thanh Thanh, lúc đi ngang Đa Cát còn nghe được tiếng cô bé ngủ mơ lẩm bẩm gì đó, nghe không rõ là gì. Xa xa phía trước chính là thủy các, Hồi Sơn có rất nhiều ôn tuyền, cũng chảy ngang cả trạch viện này. Thủy các được xây trên ôn tuyền bốc hơi nước ấm áp, dưới ánh trăng vô cùng mờ ảo. Đối diện thủy các chính là phòng ngủ của đại nhân, hai bên hành lang gấp khúc dẫn đến phòng có trồng rất nhiều gốc mai già để chống mưa tạt. Hiện giờ mai đều đã nở rộ, tỏa hương thơm bốn phía.
Đa Cát rất thích nơi này, mỗi lần đến đây cậu luôn cố tình ở lại rất muộn, như vậy đại nhân sẽ lưu cậu lại ngủ qua đêm, sau khi chờ Bình An ngủ, cậu luôn lén ra ngoài ngắm nhìn một hồi cho thỏa thích.
Đại nhân đến bình nguyên Thu Lan đã gần hai năm rồi, kể từ khi đại nhân đến đây, nơi này liền được miễn binh dịch cùng thuế vụ hai mùa xuân thu. Hoàng đế còn phái binh thu dọn các vùng lân cận, quét sạch sẽ sơn tặc hay thảo khấu trong khu vực này, đặt chốt canh phòng ở hai đầu Nam Bắc, khiến bình nguyên Thu Lan càng lúc càng thêm yên bình sung túc, ngay cả một tên trộm vặt cũng không có. Lúc trước nơi này vốn không đông dân cư sinh sống, chỉ có vài hộ dân du mục mà thôi, nhưng dần dần, dân chúng tìm đến càng lúc càng nhiều, trong đó phần đông là người dân ở Thượng Thận di cư tới, khiến Thu Lan ngày càng náo nhiệt, chỉ trong hai năm ngắn ngủi đã trở thành một trong những thành lớn nổi danh ở Bắc Yến.
Tất cả mọi người đều rất thật lòng yêu kính đại nhân, vài năm trước, nàng dẫn binh bảo vệ Xích Độ, bảo vệ Bắc Sóc, giúp đỡ dân chúng ở Thượng Thận khai hoang, đào mương, mở đường, xây dựng thủy lợi, dạy bọn họ trồng trọt theo vụ, truyền thụ phương pháp luyện thiết, xây xưởng công binh, mở trường học cùng cửa hiệu buôn bán, làm rất nhiều chuyện tốt. Sau này tuy không làm quan nữa nhưng nàng vẫn luôn bảo vệ dân chúng, giúp đỡ dân chúng ở Thượng Thận có cuộc sống bình an, sung túc. Vùng đất vốn hỗn loạn nhất Bắc Yến nay đã trở thành nơi phồn vinh nhất ở đất nước này.
Nhắc đến đại nhân, cả Thượng Thận không ai là không hết lời tán thưởng, đều nói nàng là nữ thần chuyển kiếp, vì bảo vệ Bắc Yến mà giáng thế.
Chỉ có a ma cậu thì khác, ngày đó nhắc đến bệnh của đại nhân, a ma chỉ thở dài, lắc đầu nói: “Nói cho cùng cũng chỉ là một thiếu nữ chưa đến hai mươi tuổi thôi!”
Cũng đúng!
A ma không nhắc thì cậu cũng quên mất, đại nhân năm nay còn chưa đến hai mươi, so với cậu cũng chỉ hơn có bốn tuổi. Nghe nói, đại nhân tám tuổi đã theo hoàng thượng vào hoàng cung Đại Hạ, mười sáu tuổi đã dẫn binh chinh chiến khắp các chiến trường Nam Bắc. Còn cậu mười sáu tuổi thì đang làm gì? Cưỡi ngựa? Chăn dê? Vắt sữa dê?
Đa Cát đột nhiên thấy hơi nản chí, vừa thở ra một hơi thật dài thì chợt nghe được phía trước có người hỏi: “Đa Cát đó à?”
Đa Cát ngẩng phắt lên, vừa vặn nhìn thấy đại nhân khoác áo choàng trắng đứng dưới một gốc mai, hai mắt đen như mực, lóng lánh như ngọc khiến người khác không dám nhìn thẳng.
“Đại… đại nhân.” Đa Cát có hơi quẫn bách, mặt đỏ rực như tên trộm nhỏ vừa bị người khác bắt gặp đang làm chuyện xấu.
Đại nhân sẽ nghĩ sao, sao này có cho phép cậu ở lại nữa không? Cậu đứng trước cửa phòng đại nhân ngây người lâu như vậy, đại nhân có tức giận không nhỉ?
Trong đầu cậu thiếu niên ôm ấp mối tình đầu còn đang rối bời thì Sở Kiều lại nhẹ giọng hỏi: “Em không ngủ được sao?”
“Dạ?” Đa Cát giật mình hỏi lại, sau đó liền vội vã gật đầu, “Dạ, ngủ… ngủ không được.”
“Có đói không?”
“Dạ?”
“Đến đây.”
Đa Cát ngu ngơ đi theo Sở Kiều vào thủy các. Người trước mặt cậu chân mang giày thêu, dáng mảnh khảnh, dung mạo dịu dàng như ánh trăng. Sở Kiều đưa tay đóng cửa ở ba mặt thủy các lại, chỉ để mở một mặt cho gió thông. Trong thủy các có một chiếc bàn nhỏ, trên bàn bày vài hộp đựng thức ăn rất tinh xảo. Nắp hộp vừa mở ra, mùi thơm liền bay ra bốn phía, bên trong là một ít điểm tâm vô cùng tinh tế.
“Là… là Mai Hương tỷ làm ạ?” Đa Cát khẩn trương đến mức lắp bắp.
Sở Kiều từ tốn lắc đầu, cười nói: “Là ta tự mình làm, không ngờ à?”
Đa Cát thoáng ngẩn ra, cậu chưa từng nhìn thấy đại nhân cười như vậy bao giờ. Cho dù nàng luôn giữ vẻ mặt ôn hòa nhưng cậu luôn cảm nhận được nàng không mấy vui vẻ, trên mặt dù rõ ràng mang nụ cười nhưng đáy mắt như luôn có sương mù. A ma cậu nói, người chất chứa nhiều nỗi đau trong lòng mới có ánh mắt như vậy, giống như chim ưng bị gãy cánh, dù sống cũng sẽ không vui sướng, bởi vì nó không còn là chim ưng nữa rồi.
Nhưng hiện tại, đại nhân lại ở gần cậu như vậy, cậu nhìn thấy nàng cười một cách chân thật, hai mắt cong cong giảo hoạt như hồ ly, lộ vẻ nghịch ngợm, cũng có chút đắc ý.
Đa Cát ngây ngốc gật đầu lia lịa, quên béng mất Sở Kiều hỏi gì, chỉ biết tán thưởng theo lời nàng: “Thế ạ? Ừm! Thật tài!”
Nhìn thấy bộ dáng Đa Cát như vậy, Sở Kiều vui vẻ cốc trán cậu, cười nói: “Tiểu tử ngốc.”
Đa Cát có hơi buồn bực, cậu đã mười sáu, a bá cậu ở tuổi này đã cưới a ma cậu rồi, không phải trẻ con nữa.
“Ngồi xuống đi, nếm thử một ít xem.”
Đa Cát ngoan ngoãn ngồi xuống, cầm lấy một khối điểm tâm, ngắm nghía một hồi vẫn không nỡ cho vào miệng. Điểm tâm này được làm rất tinh tế, dùng bột gạo trắng nắn thành hình như một đóa mai, chính giữa dùng táo đỏ làm nhụy.
“Ăn đi!” Sở Kiều thúc giục.
Cậu thiếu niên khẩn trương bỏ vào miệng, vì nuốt quá nhanh thành ra bị nghẹn. Sở Kiều vội vàng rót một chén trà đưa đến, cậu uống một ngụm to mới nuốt được khối điểm tâm kia xuống.
“Ngon không?” Sở Kiều hỏi.
Đa Cát bị nghẹn đến chảy nước mắt, chỉ có thể méo xệch miệng, nói một cách uất ức: “Không kịp thưởng thức đã nuốt mất rồi.”
“Ha ha ha.” Sở Kiều cười to, đẩy cái khay sang nói: “Cho em hết này.”
Đa Cát bắt đầu ăn từng khối một, thỉnh thoảng tán thưởng: “Đại nhân thật lợi hại, còn có thể làm đồ ăn ngon như vậy, người học từ ai vậy?”
“Lúc còn ở trong cung từng học, do một lão sư phụ ở ngự thiện phòng dạy cho. Đa Cát hôm nay có lộc ăn, hoàng đế Đại Hạ mới được ăn những thứ này đấy.”
“Dạ?” Đa Cát sửng sốt, tối nay cậu dường như bị thiểu năng vậy, luôn ngẩn người ngây ngốc.
Ôn tuyền quanh thủy các chợt sủi bọt *ùng ục*, gió luồn qua cửa sổ thổi vào phòng. Sở Kiều đứng lên đi khép bớt cửa sổ, thoáng nhìn thấy hàng mai mọc cao gần mái hiên thì không khỏi thất thần, cánh tay đang giơ ra khựng lại giữa không trung, ánh trăng chiếu lên phần cổ tay trắng nõn, khiến nó ánh mịn như bạch ngọc.
Chớp mắt mà đã hai năm, mấy gốc mai mới trồng năm đó mà bây giờ đã cao như vậy rồi.
Năm tháng vô tình nhất thế gian, chưa bao giờ dừng bước bởi bất kỳ vui buồn hay bi thương gì. Theo sau bước chân của dòng thời gian, cảm xúc dù mãnh liệt đến đâu cũng sẽ dần bị mài mòn đến khi nguội lạnh.
Đêm đó nàng rời khỏi thành Vân Bích, đi một mạch suốt nửa tháng thì đến được Bắc Sóc. Ở lại đó một đêm, sáng sớm nàng men theo con đường cái vắng vẻ của Bắc Sóc đi đến cửa thành, lại ngoài ý muốn nhìn thấy ngàn vạn dân chúng Bắc Yến đứng đó.
Trong đó ngoài người dân bản xứ Bắc Sóc, còn có bá tính từ sâu trong bổn thổ Bắc Yến, Thượng Thận, núi Lạc Nhật, Lâm Thành, Xích Độ, Hồi Sơn, Mỹ Lâm Quan… dân chúng được tin nàng muốn rời đi, không nói tiếng nào liền khăn gói đi tiễn. Dọc đường cũng từng gặp rất nhiều đội ngũ như vậy nhưng nàng không nghĩ ra là bọn họ đi theo mình, bọn họ cũng chưa từng tiến đến quấy rầy nàng, chỉ một mực lặng lẽ đi theo, đến lúc này mới tụ tập trước cửa thành Bắc Sóc, im lìm nhìn nàng, đưa tiễn nàng một đoạn cuối.
Trong đám đông có người già tóc trắng, có trẻ em, có người tóc vàng mắt xanh ở quan ngoại, có thương nhân từ phương Đông từng đến buôn bán với nàng, có dân binh ở thành Xích Độ từng cùng nàng sánh vai chống trả quân Hạ, có dân chúng Bắc Sóc từng tìm được đường sống dưới sự bảo vệ của nàng, có dân chúng Thượng Thận từng tham gia sửa đường xây đập nước cùng nàng, có cả những người dân du mục sống dưới chân Hồi Sơn.
Những người này sớm tinh mơ đã ra khỏi thành, lẳng lặng phân ra đứng hai bên đường. Thấy Sở Kiều đi ra, tất cả đều đồng loạt quay lại nhìn nàng.
Cho đến giờ Sở Kiều vẫn không thể quên những ánh mắt đó, có quyến luyến không nỡ, có buồn bã, có thương tâm, có lo lắng, có sợ hãi. Nhưng bọn họ đều không hề nói một lời, ngay cả trẻ con năm tuổi cũng chỉ lẳng lẽ nhìn nàng.
Khoảnh khắc đó, Sở Kiều khổ sở đến muốn bật khóc.
Nàng biết trách nhiệm của mình, suốt một năm, nàng đã đi khắp Bắc Yến truyền đạt tư tưởng hòa bình lên từng góc nhỏ. Nàng động viên bọn họ gầy dựng lại nhà cửa, nỗ lực chăn nuôi trồng trọt khắc phục hậu quả chiến tranh. Và bọn họ đã toàn tâm toàn ý tin tưởng và ủng hộ nàng. Dân tộc đã bị áp bức suốt mấy trăm năm này thật sự đã gửi gắm toàn bộ hy vọng vào cuộc sống lên người nàng. Hôm nay nàng lại muốn rời đi, muốn rũ bỏ lời hứa với bọn họ, vậy mà bọn họ vẫn không có một lời chất vấn nào đối với nàng, không hề căn vặn liệu nàng đã làm hết sức vì lý tưởng của mình chưa…
Hạ Tiêu dẫn chín ngàn quan binh của Tú lệ quân đứng một bên, ai cũng vũ trang hành lý đầy đủ, tựa như đã sẵn sàng chuẩn bị đi theo nàng.
Không nói được lời nào, nàng chỉ có thể sững sờ đứng đó, ngây ra như tượng đá.
Rồi đột nhiên, một đôi tay nhỏ chợt ôm lấy hông nàng, nàng cúi đầu thì nhận ra là một cô bé chỉ khoảng mười tuổi, đang mím môi ngẩng đầu lên, không nói tiếng nào nhưng vành mắt đã ngập nước. Bình An từ phía sau chạy lên, định kéo muội muội mình ra nhưng làm sao cũng kéo không ra.
Bình An nhập ngũ, bị Yến Tuân phái đến nội cảnh Bắc Yến, vì vậy mà một năm nay Thanh Thanh luôn ở cạnh nàng.
“Tỷ tỷ.” Thanh Thanh rốt cuộc cũng òa khóc, nước mắt không kìm được liên tục rơi lã chã, “Tỷ tỷ không cần Thanh Thanh nữa sao? Tỷ tỷ không cần muội nữa sao?”
Sau khi cô bé khóc, người khác cũng bắt đầu khóc theo. Đám đông đứng đó, không biết là ai quỳ xuống trước, dần dần tất cả người dân đều quỳ xuống, một ông lão khoảng bảy tám mươi tuổi đã khóc ướt mặt, liên tục hỏi: “Đại nhân, đại nhân không cần chúng ta nữa sao?”
“Đại nhân, không có đại nhân, ta sẽ bị bắt làm nô lệ.”
“Đại nhân, người muốn đi đâu vậy? Ta có thể đi cùng người không?
…
Gió lạnh cuốn bông tuyết bay lên không trung, thiếu nữ đã đi xa chợt dừng bước, thả cương ngựa ra, ngẩng đầu lên nhìn vầng thái dương bắt đầu tỏa sáng rực rỡ, khóe mắt lệ không ngừng chảy ra, thấm ướt tóc mai.
Trách nhiệm nặng nề khiến nàng ngạt thở.
Sở Kiều biết rõ là ai thao túng tất cả, nhưng lại vô lực trốn chạy. Người đó rất hiểu nàng, nên hắn chỉ cần thi triển một thủ đoạn nhỏ cũng có thể giữ chặt nàng.
Ngày đó, Sở Kiều tựa hồ đã chảy cạn nước mắt. Đứng giữa đồng tuyết trắng xóa, nàng cảm thấy bản thân như một con diều mất phương hướng, chỉ có thể mặc cho người khác điều khiển, muốn chạy cũng không biết phải đi đâu.
Cứ như vậy, Sở Kiều bất lực lưu lại, chọn sườn núi Hồi Sơn làm nơi cư ngụ trong suốt hai năm vừa qua.
Hai năm, nàng trơ mắt nhìn người đó thi hành chính sách sưu cao thuế nặng, nhìn hắn không ngừng công thành chiếm đất, nhìn hắn áp dụng luật sung quân hà khắc, nhìn hắn từng bước một diệt trừ mọi chống đối, vững vàng ngồi trên đế vị, nắm chặt giang sơn Bắc Yến trong tay.
Nhiều khi tự mình ngẫm nghĩ, nàng cảm thấy sinh mạng quả thật rất kỳ diệu, vì nó ngươi luôn có thể tìm thấy hy vọng trong lúc tuyệt vọng nhất, tiếp tục kiên trì, nhưng sau đó, ngay khi ngươi gần nắm bắt được hy vọng, chính nó lại như xô nước lạnh dập tắt mọi mơ ước của ngươi.
Yến Tuân thực sự đã thành công, Đại Hạ bị hắn áp chế đến ngóc đầu không lên.
Sau khi Gia Cát Nguyệt chết, Gia Cát gia đã vội vàng phủi bỏ quan hệ, trục xuất hắn ra khỏi gia phả, thi thể thậm chí cũng không được chôn trong lăng mộ gia tộc. Nhưng bọn họ vẫn không tránh khỏi bị liên lụy khiến địa vị trong hội trưởng lão giảm sút, Gia Cát Hoài cũng bị cách chức, tình hình u ám không sao kể xiết. Nghe nói Gia Cát Mục Thanh đang cố vãn hồi tình thế bằng cách tích cực bồi dưỡng con cháu chi thứ, nhưng xem ra đến giờ vẫn không có chút hiệu quả.
Nhi nữ của Nhạc Hình tướng quân là Nhạc Uyển Di cũng vội vàng hối hôn, tự mình viết huyết thư dâng lên Hạ hoàng, nói rằng Gia Cát gia ỷ thế hiếp người, Gia Cát Nguyệt mê luyến sắc đẹp của nàng ta nên đã hèn hạ dùng quyền thế buộc nàng ta phải nghị hôn với hắn. Hiện tại hắn lại phạm tội không thể tha thứ, chỉ làm góa phụ của hắn cũng là một dạng bất kính và sỉ nhục đối với đế quốc, vì vậy nàng ta tình nguyên xuất gia chứ cũng không muốn gả cho loại người vô sỉ như vậy.
Quyết tâm một lòng hướng phật của Nhạc Uyển Di tha thiết đến độ đã trở thành giai thoại trong thành khi ấy. Cho dù cuối cùng nàng ta không được như ý nguyện xuống tóc làm ni thì cũng đã thành công vạch rõ giới hạn với tội thần, bảo vệ phẩm cách thanh cao của mình.
Dĩ nhiên, thân là thượng cấp trực tiếp của Gia Cát Nguyệt, Triệu Triệt cũng không thoát khỏi số phận bị giáng chức. Vị hoàng tử có vận mệnh long đong này lại một lần nữa bị đẩy đi vùng biên giới Đông Bắc khô cằn đầy sỏi đá, nhận nhiệm vụ giám sát tiến trình xây dựng căn cứ quân sự không ai thèm ngó đến, hoàn toàn rời xa chính trường ở trung tâm Đại Hạ.
Chuyện khiến người khác không thể tưởng tượng được chính là Thập tứ hoàng tử Triệu Dương lại kết đồng minh với Ngụy phiệt. Được Ngụy Quang ủng hộ, Triệu Dương đã vùng lên trở thành hoàng tử có thực quyền nhất ở đế đô. Hắn được phong làm Chu vương, còn Ngụy Thư Diệp cũng nhờ nước lên thì thuyền lên, nắm giữ binh quyền ở Nhạn Minh Quan.
Cơ cấu quyền lực của Đại Hạ lại một lần nữa xoay chuyển sang hướng khác, nhưng phàm là người sáng suốt đều dễ dàng nhận ra Đại Hạ đã không còn khí phách như xưa. Đối mặt với thiết kỵ của Bắc Yến, bọn họ càng ngày càng lộ vẻ lực bất tòng tâm. Dù Ngụy Thư Diệp cũng được xem như là người có tài về mặt quân sự, nhưng liên tục bị Yến Tuân áp đảo, cộng thêm bị đấu đá trên triều quấy nhiễu, hắn đã dần phải đổi công thành thủ. Một năm này trở lại, sự mệt mỏi đó càng lúc càng rõ rệt.
Hiện tại đại lục Tây Mông đã bị chia thành bốn phần, không còn thế cục một nước độc tôn nữa, Biện Đường do Lý Sách cai trị, Hoài Tống có Trưởng công chúa Nạp Lan Hồng Diệp trị vì, Yến Tuân hùng cứ Tây Bắc, cách Đại Hạ chỉ một nhánh sông.
Có điều, dẫu là vậy nhưng Yến Tuân vẫn không dám tùy tiện tấn công Đại Hạ, bởi vì gần đây, phía Tây Nam núi Hạ Lan đột nhiên xuất hiện một thế lực mới lai lịch không rõ, thậm chí cũng không ai biết được tình hình nhân số của bọn họ là bao nhiêu. Thông qua tin tức từ thương lữ và thám báo, chỉ có thể biết được người đứng đầu thế lực này tự xưng là ‘Thanh Hải vương’ mà thôi.
Thanh Hải là địa phận thuộc giao giữa phía Nam núi Hạ Lan và phía Tây núi Thùy Vi, nghe nói đó là một nơi hoang tàn vắng vẻ, đất đai cằn cỗi, thú dữ hoành hành, đến cỏ cũng không sống được. Từ tận hai ngàn năm trước, các đại quốc đã xem nơi này như địa phương dành cho phạm nhân bị đày đi lưu vong, nghe nói, đó là nơi có vào mà không có ra, người đi vào đó, không biến thành đồ ăn cho dã thú thì cũng sẽ bỏ mạng vì đủ loại bệnh kỳ dị. Vì vậy, đến nay, cụm từ ‘bị đày đi Thanh Hải’ đã trở thành đồng nghĩa với ‘bị ban cho cái chết’, thậm chí, có người thà chết ở đất liền đại lục cũng không chịu bước vào Thanh Hải nửa bước. Nhiều năm qua, số người tự sát ở ngõ vào Thanh Hải đã nhiều không đếm xuể.
Thế mà, chính tại nơi rừng thiêng nước độc, thú dữ hoành hành, nơi cằn cỗi không sự sống kia lại đột nhiên xuất hiện một thế lực sáng chói như sao băng.
Ngày 17 tháng 7 năm 778, Yến Tuân tự mình chỉ huy bảy vạn đại quân tấn công cửa Nam của Nhạn Minh Quan, lúc hắn sắp thành công chiếm giữ cửa khẩu thì phía Tây Nam lại đột nhiên xuất hiện bóng kẻ kịch. Đội quân vừa đến có thân thủ mạnh mẽ, không những anh dũng mà có tốc độ nhanh như gió, chỉ một thoáng đã xé rách cánh trái quân Bắc Yến, đập tan thế công của bọn họ. Thế nhưng, khi Yến Tuân vội vàng quay đầu ngựa chuẩn bị đánh trả thì bóng dáng kẻ địch đã biến mất, cứ như bọn họ đã tan ra thành không khí vậy.
Thật lâu sau đó, thám báo mới dò được tung tích của kẻ địch ở Thùy Vi Quan. Mà ai cũng biết, Thùy Vi Quan vốn đã bị một người gọi là ‘Thanh Hải vương’ chiếm lĩnh từ lâu.
Đối với Bắc Yến mà nói thì đây quả thực là hung tin như sấm sét giữa trời quang. Bởi vì Thùy Vi Quan giáp liền với núi Hạ Lan, chiếm giữ hoàn toàn mặt Tây sông Xích Thủy, đây cũng đồng nghĩa với, ngoại trừ người Khuyển Nhung ở Mỹ Lâm Quan thì sau lưng Bắc Yến lại có thêm một kẻ địch là Thanh Hải vương. Vấn đề càng thêm trầm trọng khi Mỹ Lâm Quan vốn do Bắc Yến nắm giữa, còn Thùy Vi Quan thì lại ở trong tay Thanh Hải vương.
Nói cách khác, Thanh Hải vương ta muốn vào Bắc Yến dạo chơi lúc nào cũng được, ngươi căn bản đừng mơ bắt được ta. Hơn nữa, Thùy Vi Quan lại nằm ở vị trí giao nhau của núi Hạ Lan và núi Thùy Vi, phía Đông là một bình nguyên rộng lớn vô cùng quang đãng, cơ bản không có bất kỳ địa thế thiên nhiên nào để lập căn cứ phòng thủ. Vì vậy, Bắc Yến muốn ngăn kẻ địch từ Thanh Hải thì cũng chỉ có thể xây tường thành dài mấy ngàn dặm dọc theo núi Thùy Vi mà thôi.
Đùa sao, xây tường thành dài mấy ngàn dặm?
Có điều, cũng may là ngoại trừ vài lần hiếm hoi lộ diện, vị Thanh Hải vương kia không hề bước ra ngoài nửa bước, tựa như mấy lần đó y chỉ là nhàn rỗi không có chuyện gì làm nên mới ra ngoài tản bộ một vòng, như để báo cho Yến Tuân biết rằng, hắn có hàng xóm đấy. Dẫu vậy thì Yến Tuân cũng không dám khinh suất, vừa liên tục phái người đến Thanh Hải thám thính tình hình, vừa cử sứ giả đến Thùy Vi Quan, hy vọng có thể thiết lập quan hệ hữu nghị với Thanh Hải vương, đồng thời còn phải chật vật bố trí tuyến phòng thủ ở hướng Tây Nam, vì vậy mới cho Đại Hạ cơ hội nghỉ xả hơi chút ít.
Mấy chuyện này đều là do đám Hạ Tiêu lần lượt nói cho Sở Kiều biết. Suốt hai năm qua, ngoại trừ một lần xuống núi hành sự, còn không thì nàng chưa hề rời khỏi nơi này.
Tiếng nước sôi *ùng ục* chợt vang lên, Đa Cát nghi hoặc cúi đầu nhìn quanh, phát hiện thì ra là từ một cái nồi nhỏ trên bếp lửa đang cháy bập bùng. Sở Kiều nghe tiếng liền vội vàng đi đến, mang bao tay vào rồi nhấc nồi lên, quay lại nói: “Ăn xong thì trở về ngủ đi, ta đi trước đây.”
Đa Cát nhìn theo thân ảnh khuất dần của Sở Kiều, nàng không trở về phòng mình mà đi về phía rừng thông. Cậu thiếu niên đứng đó, cuối cùng chỉ lẳng lặng cúi xuống gói mấy khối điểm tâm trong hộp lại, nâng niu cầm trong tay, không nỡ ăn.
Gió thổi qua rừng thông khiến lá thông kêu xào xạc, Sở Kiều đi thẳng đến một bia đá xanh, đặt chiếc nồi nhỏ xuống rồi mở nắp ra, bên trong là canh thịt dê cay.
Trước bia đá có một cái bàn bằng đá xanh, mặt đá bóng loáng, vừa nhìn liền biết là thường xuyên có người ngồi. Tấm bia đá được điêu khắc theo phong cách cổ, mặt bia có năm chữ ‘Gia Cát Nguyệt chi mộ’ thật to.
Đúng vậy, hai năm trước, Sở Kiều từng dẫn ba trăm tinh binh Tú lệ quân đến Đại Hạ để đoạt lại thi thể của Gia Cát Nguyệt.
Đó là lúc nàng nhận được tin Gia Cát gia đã trục xuất Gia Cát Nguyệt, hơn nữa thi thể hắn không được phép chôn trong mộ phần của gia tộc mà còn bị quất roi rồi tùy tiện quăng ra bãi tha ma ở phía Nam hoàng thành.
Mọi chuyện rất thuận lợi vì căn bản chẳng ai buồn chú ý đến thi thể kia cả, khi Sở Kiều tìm đến thì thi thể đã bị chó hoang cắn xé tan nát, không còn ra hình người. Nếu không nhờ những vết roi còn hằn trên da thịt thì nàng cơ hồ không cách nào thu thập lại các mảnh thi thể rời rạc kia. Bất đắc dĩ, nàng đành phải hỏa táng thi thể rồi mang tro cốt trở về Bắc Yến.
Cũng trong thời gian ngắn ngủi lưu lại trong thành Chân Hoàng, nàng mới nghe được chuyện của vị tiểu thư họ Nhạc kia. Và lần đầu tiên trong đời, Sở Kiều đã mất bình tĩnh đến như vậy, sự vô sỉ của người này khiến nàng hận đến nghiến răng nghiến lợi.
Để chứng tỏ bản thân một lòng hướng Phật, tiểu thư Uyển Di ngày ngày đều lui tới miếu tự, Sở Kiều dẫn người chặn xe ngựa của nàng ta ngay giữa đường, đích thân cạo sạch tóc nàng ta để trút giận. Nhưng khi nhìn Nhạc Uyển Di nước mắt lã chã, liên tục quỳ xin tha thứ, vẻ hăng hái trên mặt Sở Kiều đột nhiên tan biến. Tựa như đến giờ phút này, nàng mới đột nhiên ý thức được, Gia Cát Nguyệt thật sự đã không còn, hắn đã biến thành nhúm tro bụi nằm trong chiếc bình trên tay nàng. Nam nhân kia, trong lúc thân thể hắn bị chà đạp, tôn nghiêm bị sỉ nhục, ngoại trừ đau lòng thay hắn, cái gì nàng cũng không làm được. Nàng không cách nào cứu hắn, không cách nào khiến Gia Cát gia thay đổi ý định khai trừ hắn, không cách nào bảo toàn danh dự cho hắn, thậm chí cũng không thể giúp hắn toàn thây.
Sở Kiều không rõ tâm tình khi đó của mình là gì, nàng chỉ cảm thấy thế giới như đột nhiên bị bao phủ bởi một màu xám. Sau khi mang tro cốt của Gia Cát Nguyệt trở về Thượng Thận, nàng chưa từng xuống núi thêm lần nào nữa, dành toàn bộ thời gian của mình quanh quẩn trong khoảnh sân nhỏ bé này.
“Gia Cát Nguyệt, ở dưới đó ngươi bây giờ nhất định đang rất hả hê có đúng không? Ta nghe Hạ Tiêu nói, Đại Hạ các ngươi ở Nhạn Minh Quan lại bị thua trận, tên Ngụy Thư Diệp kia vốn chẳng phải đối thủ của Yến Tuân, không có ngươi, Đại Hạ ăn khổ không ít. Ngươi ngoài mặt luôn vờ dửng dưng, gì cũng không để ý, nhưng ta biết, người như ngươi thù dai hơn ai hết. Ngươi bây giờ khẳng định đang nghĩ: Đáng đời lũ khốn kiếp các ngươi! Không có ông đây, đám các ngươi chỉ là bị thịt mà thôi.” Sở Kiều vừa dùng đũa khuấy thịt dê trong nồi, vừa từ tốn nói.
Nàng cúi đầu, tóc rũ xuống hai bên che khuất khuôn mặt trắng trẻo mịn màng. Ánh trăng trên cao xuyên qua tán lá thông chiếu xuống trên mặt đất để lại những cái bóng loang lổ, bàng bạc, lạnh lẽo như băng.
“Gia Cát Nguyệt, tối qua ta vẫn không mơ thấy ngươi, có phải ngươi vẫn chưa chết hay không vậy? Bằng không sao lại vô lương tâm thế hả, xuất hiện một lần trong mộng khó khăn lắm sao? Đừng nói ngươi đang hờn dỗi vì không ai báo thù cho mình đấy chứ? Nhân tiện nói tới chuyện này, nhân duyên của ngươi sao lại kém như vậy? Ở ngoài hô mưa gọi gió lâu như vậy nhưng chỉ có được vài thuộc hạ trung thành, suốt ngày mù quáng cầm đao chạy tới tìm ta. Bất quá, may mà bọn họ khờ khạo, nếu đi tìm Yến Tuân tính sổ thì không chừng mạng cũng chẳng còn.”
Nồi canh dần dần hết nóng, thịt dê trong nồi cũng bắt đầu đông lại, Sở Kiều vẫn tiếp tục lẩm bẩm: “Hôm qua ta vừa đốt ít tiền vàng cho ngươi, ngươi có nhận được không? Trước kia ngươi đối xử với ta rất tốt, ta không có gì để báo đáp, cũng chỉ có thể đốt mấy thứ này cho ngươi mà thôi. Ngươi xuất thân từ thế gia, từ nhỏ đã bị chiều hư rồi, y phục đưa tới tay, cơm đưa tận miệng, xuống dưới đó không có tiền thì biết làm sao? Có điều, chắc cũng không sao, ngươi mang nhiều tiểu đệ theo cùng như vậy, cho dù đến âm phủ cũng có thể tiếp tục chỉ tay năm ngón chờ người hầu hạ.”
“Gia Cát Nguyệt, ngươi có biết Mặc Nhi đi đâu không? Ta đã nhiều lần phái người đến thành Chân Hoàng nhưng vẫn không tra ra tung tích của thằng bé, người của ta về báo là mất tích rồi, đừng nói là bị người cha như ngươi vứt bỏ giữa đường chứ? Mặc Nhi còn nhỏ như vậy, tình thế lại thực đáng thương, ngươi ở dưới đó có nhìn thấy thằng bé thì nhớ báo mộng cho ta biết một tiếng, cũng đỡ cho ta phải đi khắp nơi tìm kiếm.”
Một cơn gió thổi qua khiến nước đọng trên lá cây rơi tõm vào trong nồi, Sở Kiều như vẫn còn miên man trong giấc mộng, vẻ mặt rất bình tĩnh, nhìn không hề có chút khổ sở thương tâm nào. Nàng lẳng lặng đều giọng nói, tiếng rất nhỏ nhưng trong màn đêm yên tĩnh lại vô cùng rõ ràng.
“Gia Cát Nguyệt, thật ra tối qua ta không hề ngủ, ta mở to mắt nhìn trần nhà cả đêm, nghĩ đi nghĩ lại chuyện ngày đó. Ta thật ra có rất nhiều cơ hội cứu ngươi, đầu tiên, lúc ấy ta hẳn nên nhờ Hạ Tiêu hộ tống giúp ta và ngươi giả vờ cùng rời đi, sau đó chúng ta chia ra thành hai mươi hướng khác nhau đánh lạc hướng truy binh rồi lén trở về thành Cống Duyệt, chờ qua bão lại tìm cách trốn thoát sau. Hai là lúc ở hồ Thiên Trượng, ta hẳn nên dẫn quân đánh thẳng vào cánh phải, chỗ cung thủ dàn hàng, cho kỵ binh chạy qua chạy lại hai lượt đã có thể khiến bọn họ náo loạn, như vậy ngươi sẽ có thời gian trốn thoát rồi. Thứ ba, vì sao lúc ấy ta lại không trực tiếp đến bắt Yến Tuân làm con tin chứ? Ta cứ việc tươi cười đi qua đó, Yến Tuân chắc chắn sẽ không nghi ngờ. Khi đó dường như đầu óc ta bị nhúng nước rồi hay sao ấy. Chưa kể, cuối cùng ngươi còn đẩy ta lên làm gì, trong tay ta có chủy thủ, chúng ta bơi ra cách đó vài trăm mét, sau đó dùng chủy thủ phá băng trèo lên là được rồi, nước hồ tuy rất lạnh nhưng cũng không lập tức khiến chúng ta bị đông cứng mà. Lúc tàu Titanic bị chìm, Jack còn cầm cự được lâu như vậy, huống chi là người luyện võ như ta và ngươi.”
Sở Kiều ảo não lầm bầm: “Sao lúc đó ta lại không nghĩ đến những điều này nhỉ?”
Ban đêm yên ắng đến độ có thể nghe được tiếng chó sủa dưới chân núi, tất cả mọi người đều đã ngủ say, chỉ còn một mình nàng vẫn ngồi đây thì thầm.
Sở Kiều nói một lúc lâu rồi đột nhiên đứng dậy gõ mạnh lên mộ bia của Gia Cát Nguyệt, lớn tiếng hỏi: “Này, ta đang nói chuyện với ngươi đấy, ngươi có nghe thấy không vậy?”
Tiếng gõ của nàng nghe văng vẳng trong rừng thông, Sở Kiều hỏi xong lại bất chợt ngây người ngồi xổm xuống bên bia mộ, mặt lộ vẻ buồn bã. Nàng lại cúi đầu, mặc cho tóc rũ xuống hai bên che khuất mặt.
Tiếng thì thầm ủ rũ của nàng lại vang lên trong không trung, “Ta rõ ràng có nhiều biện pháp như vậy, nhưng tại sao vẫn không thể cứu được ngươi?”
Đêm khuya lạnh lẽo, gió mơn man thổi qua người, Sở Kiều tựa người bên bia mộ, bất động một lúc lâu. Lá cây trong rừng đã bắt đầu úa vàng, mỗi khi có gió thổi qua liền rơi rụng lả tả.
Khung cảnh giống như rất nhiều năm trước, bọn họ từng tựa lưng vào nhau như vậy, bóng đêm mịt mù vây quanh. Bốn phía đều là kẻ địch nhưng bọn họ đã dựa lưng vào nhau, kề vai chiến đấu ăn ý tựa như một thể vậy.
“Gia Cát Nguyệt, đây chính là số mạng của chúng ta…” Sở Kiều thấp giọng thì thầm, trên không trung chợt có tiếng chim đêm kêu thổn thức, âm thanh văng vẳng bay xa.
Sở Kiều từng cho rằng, vận mạng sẽ khiến nàng cứ như vậy mà sống. Nhưng sáng sớm hôm sau, một tin tức ngoài dự tính đã nhất thời phá hủy cuộc sống tĩnh lặng của nàng.