Lúc này Thiệu, Khê hai người lập tức bước mau tới, gác chéo hai tay thành hình chữ “X”, rồi cung kính rằng :
- Bẩm kính Bang chủ! Đệ tử xin tham kiến người!
Âu Dương Phong trợn ngược mắt quát :
- Ai là Bang chủ của ngươi? Hỗn láo! Cút đi ngay!
Thiệu Bình lễ phép cúi mình rằng :
- Phàm những người tay cầm Lục Trúc trượng, là coi như Bang chủ của Cáibang, đây là luật lệ mấy trăm năm của Cái bang, nếu Bang chủ cần gì, xin cứ việc sai bảo.
Âu Dương Phong tuy là người khôn, nhưng lại mắc phải chứng tự cao tự đại quen rồi, lại nữa đầu óc điên tỉnh bất thường, nghe xong ngỡ đâu làthật, hỏi rằng :
- Thật vậy sao? Nay ta cầm cây gậy “Đả Cẩu bổng”, đã nghiễm nhiên trởthành Bang chủ của Cái bang ư? Nếu vậy, tất cả các tay ăn mày trongthiên hạ đều phải phục tùy ta sao?
Thiệu, Khê hai người cùng đáp :
- Đúng vậy!
Âu Dương Phong đắc ý, múa tít cây Lục Trúc trượng cười như điên nói :
- Vậy từ hôm nay trở đi, ta đã là Bang chủ của Cái bang! Hồng lão ănmày, danh hiệu “Bắc Cái” của ngươi cũng phải nhường luôn cho ta! Nhưngcòn ta...
Nói tới đây Âu Dương Phong lại trở lại căn bệnh điên khùng của mình, đầu óc lão lại mơ hồ hỗn loạn, nhìn Thiệu Bình ngớ ngẩn hỏi :
- Vậy, còn ta là ai đây?
Thiệu Bình biết tinh thần lão lại khởi sự thác loạn, trông mặt ngơ ngác của lão đến tức cười, nhưng Thiệu Bình nói :
- Dạ, ngài là Bang chủ chứ còn ai nữa!
Âu Dương Phong cả mừng :
- Vậy thì hay lắm! Để mừng chức “vua” ăn mày của ta, ta lập tức phongngay cho chúng bay lên hàng trưởng lão trong Cái bang, vậy hãy lo đi tập hợp các anh em Cái bang tới đây, càng đông càng hay!
Thực ra kế hoạch của Thiệu, Khê là để Âu Dương Phong ở yên một chỗ, lừasao cho lão ở lại Nghi Hưng trong mươi ngày, để cho Tôn Tam, Khương Tứngười Trường Giang về Bắc, dùng phương pháp cấp tốc nhất để truyền tinvề Sơn Đông, để cho Hồng Thất Công và Hoàng Dung hay tin, và cả hai tâncựu Bang chủ thi hành xuất mã đến tìm Âu Dương Phong để tính nợ, nào hay Lão Độc Vật lại đòi triệu tập anh em Cái bang bất ngờ như vậy, ThiệuKhê đưa mắt khó xử nhìn nhau, Âu Dương Phong thấy vậy nổi giận quát gắt :
- Ta là Bang chủ, sao hai đứa mày không chịu tuân lệnh? Bộ không ngán “Đả Cẩu bổng” ta quất cho toi ngay sao? Mau đi!
Thiệu Bình thấy sự thể xảy ra nông nỗi này, nếu mình đi triệu tập anh em Cái bang cũng được, nhưng Âu Dương Phong đi mất, chẳng hóa ra toi cônghỏng việc hay sao? Khê Võ bỗng nghĩ ra được một kế, nói ngay :
- Thưa Bang chủ, thế này vậy, chúng tôi đây có hai đứa để lại một đứahầu cận ngài, còn một đứa lo đi triệu tập anh em Cái bang lại đây thamkiến ngài!
Âu Dương Phong lạnh lùng cười nhạt :
- Ta là Bang chủ mà phải cần lũ bay ra kế bày vẽ sao? Chớ có giở thối ra nữa, cả hai đứa theo ta, ta tới đâu, chúng bay theo tới đó, thấy đứanào, bảo chúng lại tham kiến ngay ta, nghe rõ chưa?
Thiệu Bình, Khê Võ nghe xong than khổ trong lòng.
Âu Dương Phong lập tức hối thúc hai người khởi trình, suốt dọc đường,lão giở hết tác phong của một Bang chủ Cái bang, hách xì xằng dữ. Haythì chửi, không hay thì đánh, Thiệu, Khê than khổ thấu trời, chuyến nàytự rước họa vào thân với tên ma đầu khét tiếng ấy, nào đâu dám nửa lờiphản kháng, đành cúi đầu lẽo đẽo theo Âu Dương Phong. Cuộc hành trình từ Nghi Hưng tới Gia Hưng, một hôm, Âu Dương Phong đến một con sông nhỏ,bỗng nghe phía trước kèn trống thổi đánh inh ỏi, Âu Dương Phong quay hỏi nhị khất Thiệu, Khê :
- Này, tiếng kèn trống phía trước kia có phải chăng là đám cưới rước dâu không?
Thiệu Bình nhìn kỹ, nói ngay :
- Thưa Bang chủ đúng ạ! Phía bên kia cầu sông đang có kiệu hoa đi tới, cờ xí kèn trống đi trước, đúng là đám rước dâu!
Âu Dương Phong định thần nhìn kỹ, một kiệu hoa đỏ choét đang được khiêng gập ghềnh qua cầu gỗ, ngoài những người thổi kèn đánh trống cầm cờ ra,có cả một chú rể thắt hoa nhiễu đỏ ngay xéo vai, cưỡi trên lưng lừa.Thấy cảnh trạng này chợt nhớ tới người Âu Dương công tử, lão nghĩ nếucháu mình không thiệt mạng tại Ngưu Gia trang, bây giờ cũng có vợ connhư ai, và mình cũng làm lão thái gia (ông nội), đâu đến nỗi sống cảnhphiêu bạt giang hồ như vậy. Tây Độc càng nghĩ càng ức, càng ức đầu óccàng trở nên rối loạn, bỗng lão trợn ngược mắt, quát ngay :
- Hai đứa bay mau qua lôi cổ chú rể xuống, đánh ngay một trận nên thân cho ta! Mau!
Thiệu, Khê hai người cả kinh nói :
- Thưa Bang chủ, ngài điên rồi sao? Hồng bang chủ...
Chưa kịp nói hết lời, Âu Dương Phong đã giơ hai cánh tay ra như diều hâu quắp gà non, túm mạnh ngay vào lưng hai người quát :
- Khốn kiếp! Chính chúng bay gọi ta là Bang chủ, thế mà dám há miệng cãi lệnh ta, dùng chúng bay làm chó gì? Hừ...
Nói đến đây lão vận ngay “Cáp Ma công” đánh gãy nát xương sống của nhịkhất, tội nghiệp cho Thiệu Bình và Khê Vũ, diệu kế chưa thành đã mấtmạng về tay Tây Độc.
Âu Dương Phong giết xong nhị khất đầu óc càng thác loạn, lão hét lên một tiếng quái gở, tay giơ nghiêng trúc trượng, hướng về phía cầu ván xôngthẳng sang. Đám rước dâu đang vui nhộn tưng bừng, bỗng thấy một ngườitóc tai rối tung, mắt đỏ ngầu, râu tua tủa, khua tay múa chân, nhắm ngay đám rước dâu chạy phăng phăng tới, ai nấy hoảng hồn kinh người, nhaonhao tính bỏ chạy. Nhưng ngay trong cơn tóe lửa ấy, Âu Dương Phong đãquát lên một tiếng dữ dằn, lướt ngay vào đám rước như một ngọn “cuồngphong cuốn lá rụng”. Các tay bát âm (thổi kèn đánh trống) và cờ xí, tráp quả thi nhay té lăn chiêng đổ đèn, loạn như bầy ong bị phá tổ.
Chú rể trên lưng lừa thấy một lão điên thình lình nhảy vào phá đám như vậy, cuống quít la hoảng :
- Ối ối ối! Loạn rồi, phản rồi, hãy bắt ngay lão điên lên quan phủ!
Chưa dứt tiếng, Tây Độc đã nhoáng mình vèo ngay đến trước mặt chú rể, giơ tay chụp ngực lôi ngay xuống quát rằng :
- Nhãi con như mày mà cũng đòi cưới vợ sao? Chịu khó xuống Thủy tinh cung làm đám hỏi trước đã!
Dứt lời lão nắm đầu chú rể quăng ngay xuống sông, may nhờ sông cũngkhông sâu, chú rể cũng biết bơi, nên không đến nỗi bị chết đuối, nhưngtình cảnh đám rước lúc này tan hoang thất bất.
Cơn điên của Tây Độc lúc này đã lên đến cực độ, lão vung chưởng đánhthốc vào lưng lừa, lão dùng ngay “Cáp Ma thần công”, con vật khốn nạnkêu lên một tiếng kinh người, xương sống gãy nát, bốn chân soải dài nằmbẹp xuống, miệng hộc máu chết tươi ngay trên cầu. Cảnh chết rùng rợn của con súc vật đã gây nên một sự kinh sợ tột đỉnh cho tám tên phu khiêngkiệu hoa, tên nào cũng vãi nước ướt đũng quần, hò hét la hoảng, quăngngay kiệu hoa nơi cầu ván chạy vắt giò lên cổ. Âu Dương Phong thấy vậyôm bụng cười ngất, chợt lão lại vung chưởng đánh tạt bay cửa kiệu hoa,cô dâu trong kiệu tái mét mặt, sợ đến nỗi không kêu được nửa tiếng nào.Thấy bộ mặt sợ hãi của cô dâu, Tây Độc càng đắc ý cười ngất, lão thòngay bàn tay hộ pháp, lôi ngay cô dâu từ trong kiệu ra, nhưng cô dâu đãxỉu ngất bất tỉnh nhân sự luôn.
Tây Độc vác ngay cô dâu lên vai, miệng lẩm bẩm rằng :
- Con bé này vô dụng quá, mới vậy mà đã chết ngất đi. Thôi, mình cứ vác về cho cháu mình thành hôn.
Dứt lời, lão bước thẳng ngay xuống cầu ván, lúc này đám rước dâu đã chạy biến dạng hết, nào có ai dám ở lại ngăn cản. Tây Độc vừa bước xuốngkhỏi cầu, bỗng một tiếng nói rền như chuông đồng rằng :
- A di đà Phật! Bạch Đà sơn chủ bấy lâu vẫn mạnh giỏi chứ?
Bốn chữ “Bạch Đà sơn chủ” lọt vào tai Âu Dương Phong, lão bất giác kinhngười giật mình, bộ óc đang thác loạn chợt trở nên thanh tĩnh. Bởi đãkhá lâu, không ai dùng đến danh hiệu này để gọi lão, ngờ đâu hôm nay lại được nghe thanh âm xa xưa này. Tây Độc như hiểu được ít nhiều sự việcgì, lão buông ngay cô dâu ngất xỉu xuống đất, nhìn ngay lại phía cầuván, chỉ thấy trên bờ cầu lúc này đứng một loạt thành hàng ngang nămngười, phía trước là một lão hòa thượng râu mày trắng phau, bốn ngườiđứng sau khí phách hiên ngang, lối ăn mặc khác nhau, một theo lối độcthư sĩ tử, một theo lối nông dân, một theo lối tiều phu, và một theo lối ngư phủ, năm người ngày không ai xa lạ hơn là Nhất Đăng đại sư và bốnđại đệ tử: Ngư, Tiều, Canh, Độc.
Từ hồi luận kiếm lần thứ nhất tại Hoa Sơn, Tây Độc và Nam Đế đã xa nhautrên ba mươi năm trời, trong kỳ luận kiếm thứ nhất tại Hoa Sơn ấy, NhấtĐăng đại sư còn là Nam Đế Đoàn Hoàng Gia, nhưng đến kỳ luận kiếm thứ hai tại Hoa Sơn, Đoàn Hoàng Gia đã thí phát thành tăng, ông ta cũng bỏ cuộc tranh đoạt “Đệ nhất võ công trong thiên hạ” với Bắc Cái, Đông Tà, TâyĐộc, mà chỉ điểm hóa cho Bang chủ nhóm Thiết Chưởng bang là Cừu ThiênNhẫn rồi bỏ đi, nên họ không hề gặp nhau tại đại hội Hoa Sơn lần thứhai. Âu Dương Phong nào đâu có thể ngờ được lão Hòa thượng từ bi thiệnmục này đây lại là người oai trấn khắp thiên hạ - Thiên Nam nhất đế.
Tây Độc trợn mắt quát hỏi :
- Lão Hòa thượng, ngươi là ai vậy?
Nhất Đăng đại sư chắp tay đáp :
- A di đà Phật, lão nạp vẫn là lão nạp, đời người chẳng da thối bọcthây, thế giới mông mênh vạn biến, chẳng ai là ai cả, vậy đâu có gì đểmà chia ranh giới giữa “ta” và “ngươi”. Bạch Đà sơn chủ, khổ ai vô biên, hãy mau quay đầu theo lão nạp cho yên phận.
Âu Dương Phong cả giận quát :
- Khéo giở thối! Ngươi là sư hổ mang ở đâu tới đây? Ta nào có quen biết gì ngươi, ngươi mà cũng xứng khuyên nhủ ta sao!
Nhất Đăng đại sư không hề nổi giận, nhưng Canh, Tiều, Ngư, Độc bốn đạiđệ tử đã nổi giận đùng đùng, nhất là nông phu Võ Tam Thông xưa kia từngbị Tây Độc cố dùng “Cáp Ma công” đả thương tại chân núi Cổ La sơn ở Niệm Thanh đường, nay kẻ thù gặp nhau cơn giận dằn sao cho nổi, hét lên mộttiếng, phi thân nhảy qua, vung ngay cuốc trên tay, nhắm ngay não môn Tây Độc bửa mạnh xuống.
Âu Dương Phong thấy nông phu ra tay, lạnh lùng rằng :
- Muốn động võ với lão gia hả? Hay lắm!
Miệng nói, tay động, vụt nhanh cây Lục Trúc trượng sang, dùng ngay lốixà trượng pháp của Bạch Đà sơn, khiến cho nông phu Võ Tam Thông đau nhức hổ khẩu nơi tay, cây cuốc suýt bị văng luôn.
Thấy Võ Tam Thông suýt bị “lỗ vốn”, Ngư, Tiều hai người đâu nhịn nổi, cả hai vội nhảy tới tấp sang. Ngư phủ vung luôn mái chèo sắt quất nganggáy Tây Độc, binh đao của Tiều tử là cây đòn gánh sắt, đánh vung theomặt đất với ngọn “Thu Phong Tảo Diệp” (gió thu quét lá) sang cẳng TâyĐộc.
Trong lúc đó Âu Dương Phong đang bận đưa trúc trượng chống đỡ hai thứbinh đao của Ngư phủ và Nông phu, đương nhiên đâu còn rảnh tay để tiếpngọn đánh của Tiều tử. Nhưng Tây Độc quả là cao thủ có khác, lão cũngchẳng vội vã gì, thượng bán thân uy nghi bất động, hạ bán thân chờ đợi,cây đòn gánh đã trúng cẳng Tây Độc, nhưng lúc này như đánh vào một đốngbông gòn mềm mại, nghĩa là không chịu sức đánh. Tiều tử kinh hãi vừatính rút nhanh cây đòn gánh về, nào hay Âu Dương Phong đã giơ hai chânquặp ngay chiếc đòn gánh sắt của Tiều tử, dồn hết trọng lực của mình lên chiềc đòn gánh. Tiều tử cố sức cắn răng để kéo bật binh khí về, nào hay cây đòn gánh như mọc rễ bám chặt vào chân Tây Độc, không làm sao rút ra được, ngoài ra binh khí của Ngư phủ và Nông phu cũng bị Tây Độc ép đãkhông sao hoạt động được. Âu Dương Phong một mình áp đảo ba cao thủ, cóthể nói là một lối đánh vừa kỳ vừa lạ, trên đời hiếm thấy. Những ngườiđứng dưới cầu thấy vậy cả kinh.
Độc sách thư sinh thấy cả ba sư đệ đều bị khốn đốn về tay Tây Độc, bấtgiác cả giận, “soạt” một tiếng rút ngay trường kiếm ra, tính xỉa ngaytới sau lưng Âu Dương Phong. Nhất Đăng đại sư bỗng gọi giật ngay lại :
- Khoan! Con có lên cũng vô ích.
Dứt lời, vung ngay tay áo, dùng ngay ngọn “Nhất Dương chỉ” vốn là khắctinh của “Cáp Ma công”. Xưa kia kỳ thứ nhất luận kiếm tại Hoa Sơn, ToànChân giáo chủ Vương Trùng Dương đều nhờ ngọn “Nhất Dương chỉ” áp đảoquần hùng, nhưng về sau Tây Độc luyện được “Cáp Ma công” lại có thểnghịch chuyển kinh mạch toàn thân, nên chẳng ngán gì “Nhất Dương chỉ”.Nay Nhất Đăng đại sư bung chỉ, Âu Dương Phong đã đề phòng trước, lập tức buông ngay hai chân phía dưới lên trên hất ngay Lục Trúc trượng, cùngmột lúc đánh bật binh khí của ba người, gót chân hất bật ngay cây đòngánh sắt dưới chân, lộn chổng ngược người lên, đầu dưới đất, chân trêntrời, bởi vậy ngọn điểm “Thiên thương huyệt” của Nhất Đăng đại sư lúcnày trở thành điểm “Bạch hải huyệt” nơi cẳng bên mặt của Âu Dương Phong, nói ra cũng lạ, rõ ràng Nhất Đăng đại sư đã điểm trúng đích, thế mà ÂuDương Phong chẳng hề hấn gì, trái lại còn đá bay ra một ngọn về phíangực Nhất Đăng đại sư.
Ngọn đá của Tây Độc tuy thình lình, nhưng Nhất Đăng đại sư nào phải tayxoàng, ông ta vung ngược chưởng đánh ngay vào đầu gối của Âu DươngPhong, nơi đây được mệnh danh là “Hoàn Khiêu huyệt”, chính là một trongmười hai huyệt tê buốt của con người, nếu người thường bị điểm trúng,toàn thân sẽ mềm như bún ngay, nhưng đối với Âu Dương Phong lại trơ nhưđá gỗ. Lão chẳng cảm thấy gì, “ào”, “ào” đá liên tiếp hai ngọn nữa, câytrúc trượng trên tay nhoáng lên với thế “Kinh Xà Nhập Thảo” (rắn hoảngchui vào cỏ) quét mạnh ngay về phía chân của Nhất Đăng đại sư.
Nhất Đăng đại sư không ngờ ngọn “Nhất Dương chỉ” của mình lại không thuđược lợi gì, làm như toàn thân Âu Dương Phong không hề có huyệt đạo gìvậy. Nhất Đăng đại sư cả kinh. Ông ta vội nhảy lùi ra sau. Ngay lúc đóthư sinh nhảy nhanh tới, cây trường kiếm chỉa thẳng vào hông Âu DươngPhong, Tây Độc không thèm để ý đến lối đánh này, nhưng khi mũi kiếm sắpđâm vào mình, lão thình lình bửa ngang một chưởng vỗ ngay vào gáy thanhkiếm. Lối đánh của Âu Dương Phong quả là quái dị hết sức, chỉ thấy lãoco ngay khuỷu tay, chưởng gõ ngay vào thanh kiếm như rắn mổ, ra là dùnglối đánh “Kim Xà quyền pháp”. Xưa kia cháu Tây Độc, Âu dương công tử khi giao tranh với Quách Tỉnh tại Ngưu gia thôn ở Bảo Ứng huyện cũng từngdùng lối “Kim Xà quyền” phá hẳn thế “Hàng Long thập bát chưởng” mà Quách Tỉnh chưa học thạo, chính Âu Dương Phong là người sáng tạo ra lối quyền pháp này, khỏi cần nói cũng biết lão đã tinh thuần đến mực tuyệt diệucủa nó. Chỉ nghe “Kim Xà quyền” vang lên một tiếng “bịch”, đánh trúngngay tay nắm kiếm của thư sinh, cây kiếm bay văng khỏi tay. Âu DươngPhong lại khua ngay “Kim Xà quyền” nhắm ngay mắt Nhất Đăng đại sư thụitới, cây Lục Trúc trượng “vù” lên một tiếng, quét nhanh dưới chân đạisư, lúc này chẳng khác nào lối đánh “Song Thủ Hỗ Bác” của Quách Tỉnhthường dùng vậy. Bản lĩnh Nhất Đăng đại sư tuy cao cường, nhưng gặp đốiđánh đột ngột quái dị này, cũng đành né tránh sang một bên. Âu DươngPhong chợt hét lên một tiếng dữ dội, hai tay chống mạnh ngay xuống đất,một trận cuồng phong lướt mạnh ngang mặt năm thầy trò, Nhất Đăng đại sưtung mình phi ra ngoài mười trượng, chớp nháy Âu Dương Phong đã biếndạng luôn.
Bốn đại đệ tử Ngư, Tiều, Canh, Độc không ngờ được võ công của Âu DươngPhong lại cao cường đến như vậy, cả bốn người bị ngã lăn ra mặt đất, vừa thẹo vừa giận. Nông phu hậm hực hơn ai hết, hét lên một tiếng vác ngaycuốc lên tính đuổi theo, Nhất Đăng đại sư ngăn ngay lại nói rằng :
- Thôi Tam Thông! Loại người không chịu quay về con đường thiện, có đuổi được lão cũng uổng công, mặc cho hắn tự do vậy.
Ngư phu, Tiều phu nói :
- Thưa thầy, thầy buông tha lão như vậy, không ngại lão tiếp tục tác ác hay sao?
Nhất Đăng đại sư thở dài nói :
- Các người theo ta lâu năm thế, sao chẳng hiểu chút thiện lý gì cả,Phật gia thường nói: “Ta không vào Địa ngục, hỏi ai vào Địa ngục?”. Nayxem tình trạng điên khùng của Lão Độc Vật như vậy, cũng chẳng sống đượcbao lâu nữa, vậy chúng ta cần gì phải nhổ cỏ trừ tận gốc như vậy, để lão đi cho rồi.
Lúc này đám người rước dâu biết lão điên đã đi, ai nấy lóp ngóp xúm xítlên cầu lo cứu tỉnh cô dâu, còn chú rể ngất ngư uống khá nhiều nước, nằm phờ ra bãi sông tự oán trách lựa phải ngày xấu nên mới ra nông nỗi này.
Thầy trò Nhất Đăng đại sư ai cũng chẳng muốn gây hoang mang với dân địaphương, bèn rời ngay Nghi Hưng huyện, thẳng đường tiến lên hướng Bắc.Một người xưa kia từng xưng hùng Thiên Nam nhất đế như Đoàn hoàng giađây, lúc này lòng buồn rầu. Ngư, Tiều, Canh không hề phát giác, chỉriêng có thư sinh nhận ra sắc thái của thầy. Thư sinh tên gọi Chu TửLiễu, vốn là Trạng Nguyên tướng công của Đại Lý Quốc, tính tình nhanhnhẹn. Chu Tử Liễu hỏi ngay Nhất Đăng đại sư :
- Thưa thầy, có chuyện gì mà thầy có vẻ buồn rầu vậy, hay tại thua Tây Độc, trong lòng không an tâm?
Nhất Đăng đại sư lắc đầu rằng :
- Tử Liễu, bộ ngươi còn tưởng ta là Đoàn Hoàng Gia bốn chục năm về trước sao? Đối với việc tranh hùng háo thắng, nào ta đâu còn quan tâm gì đến? Chẳng qua trong lòng ta hiện nay có nghi vấn, ngọn “Nhất Dương chỉ” của Vương chân nhân truyền cho ta xưa nay vẫn linh nghiệm, nhưng nay gặpLão Độc Vật tự nhiên mất linh ngay, ta đã điểm cả thảy hai lần huyệt,thế mà đối phương vẫn chẳng hề hấn gì, thật quả ta cũng lo ngại nghi ngờ quá.
Chu Tử Liễu liền tiếp lời rằng :
- Lão Độc Vật quỷ kế đa đoan, xưa nay lại là bậc kỳ tài trong bàng môntà đạo, hay là trong mấy năm nay, lão ta đã luyện được ra một lối võcông độc đáo gì có thể phong tỏa các huyệt đạo trong toàn thân cũng nên.
Nhất Đăng đại sư lắc đầu tỏ ý không tin, vì ông ta biết trong võ côngcủa phái Tây Tạng ấy, có loại khí công được gọi là “Mật tông” có thểphong tỏa các huyệt đạo, nhưng không thể nào ngăn chặn được lối nội giachân lực của “Nhất Dương chỉ”, thế mà Âu Dương Phong ngang nhiên khôngcoi “Nhất Dương chỉ” vào đâu, như vậy đủ hiểu võ công của lão xuất thầnnhập hóa đến độ nào.
Đang lúc thầy trò mải chuyện vãn, phía trước bỗng hiện ra một đám người, quần áo người nào cũng rách, hình dáng trông như nhóm hành khất. Chu Tử Liễu nhìn ngay về phía trước, rồi lên tiếng :
- Anh em Cái bang đã đến!
Nhất Đăng đại sư ngẩng đầu nhìn, bỗng nghe một giọng quen cười nói :
- Hà! Hà! Hà!... Lão hòa thượng, lâu quá không gặp nhau, không ngờ nay Hòa thượng bước vào hồng trần như thế sao?
Giọng nói vô cùng quen tai, hóa ra là cựu Bang chủ Cái bang, Cửu ChỉThần Khất Hồng Thất Công. Ngư, Tiều, Canh, Độc bước lại thi lễ, ai nấyđều nói :
- Thưa Bang chủ, hôm nay gió gì đưa ngài tới đây vậy?
Hồng Thất Công thản nhiên cười ha hả rằng :
- Chẳng có gió Bắc gió Nam gì ráo. Lão ăn mày ta chỉ biết độc có giórượu mà thôi, à... từ nay cấm hết mọi người không được kêu ta là Hồngbang chủ nữa. Chức vị Bang chủ của ta đã nhường lại cho người khác rồi,cứ kêu ta là lão ăn mày đủ rồi. Kìa lão Hòa thượng, thế còn người nốinghiệp của ngươi đâu? Ai thế?
Nhất Đăng đại sư vẫn cười rằng :
- Không ngờ xa cách Thất huynh bấy lâu, mà phong độ xưa kia vẫn y nguyên.
Thì ra Hồng Thất Công đang ở Sơn Đông bỗng được Khương, Tôn nhị khấtdùng lối truyền tin nhanh cho cựu Bang chủ về tung tích của Tây Độc.Không đầy ba hôm tin tức đã truyền đến Sơn Đông, Hồng Thất Công được tin về Lục Trúc trượng, lập tức khởi trình xuống miền Giang Nam.
Sau khi hàn huyên một hồi, Hồng Thất Công hỏi ngay Nhất Đăng đại sư :
- Này lão hòa thượng, ông có thấy Lão Độc Vật đâu không?
Ngư, Tiều, Canh, Độc bốn đại đệ tử của Nhất Đăng đều kinh ngạc. Nông phu Võ Tam Thông nhanh miệng :
- Dạ chính hôm qua đây, chúng tôi còn giao tranh lớn với Lão Độc Vật.
Nhóm Cái bang xôn xao, Hồng Thất Công hấp tấp hỏi :
- À, ra lão Hòa thượng đã chạm trán với Lão Độc Vật rồi hả? Vậy ta hỏi,thế có thấy trên tay Lão Độc Vật có cầm Lục Trúc trượng không?
Ngư phủ, Tiều phu đều đáp :
- Có có! Binh đao của lão chính là cây gậy trúc ngắn.
Hồng Thất Công nhảy bung lên la hét :
- Tức chết lão ăn mày ta thật, Lão Độc Vật ngang nhiên dùng gậy quý của ta để đánh nhau với người ta. Trời ời...
Nhất Đăng đại sư thấy Hồng Thất Công cuống lên như vậy, nói :
- Trời! Kẻ tung hoành ngang dọc bấy lâu như “Cửu Chỉ Thần Cái” không ngờ hôm nay đến chiếc gậy xin cơm cũng bị người ta cướp mất như thế.
Hồng Thất Công mếu cười dở dang về câu nói của lão thiền sư, nhất làtrước mặt anh em Cái bang đông như thế, Hồng bang chủ bực mình rằng :
- Thôi lão Hòa thượng chớ có đùa cợt nữa! Thế nay Lão Độc Vật chết toi ấy đã chạy ngã nào rồi?
Ngư, Tiều, Canh, Độc bèn thuật lại một lượt cho mọi người nghe, sau cùng nhấn mạnh thêm: không biết Lão Độc Vật ấy ở đâu học luyện được lối bảnlãnh quái đản, ngang nhiên không sợ ngọn “Nhất Dương chỉ” của Nhất Đăngđại sư, họ tưởng đâu Hồng Thất Công nghe xong chuyện ấy thế nào cũngkinh ngạc, nào hay Hồng Thất Công nghe xong, ôm bụng cười ngất.
Thầy trò Nhất Đăng đại sư ngẩn người ngạc nhiên chẳng hiểu Hồng ThấtCông cười gì mà rũ người ra vậy, nhưng cựu Bang chủ của Cái bang cườimột hồi xong nói :
- Trò nghịch đùa của con bé Hoàng Dung không ngờ gây nên cảnh tai hạinhư thế, nó đã dùng “Cửu Âm giả kinh” lừa Lão Độc Vật, ai ngờ đâu tròlừa ấy tạo nên họa thật ngày nay khiến Lão Độc Vật hết sợ luôn ngọn“Nhất Dương chỉ”.
Thầy trò Nhất Đăng đại sư nghe tới đây càng khó hiểu, lúc này Hồng ThấtCông mới kể hết đầu đuôi Âu Dương Phong bị Hoàng Dung lừa vào lối“nghịch chuyển chân kinh”. Nhất Đăng đại sư gật gù :
- Thì ra huyệt đạo của Lão Độc Vật đã biến đổi vị trí, thảo nào “NhấtDương chỉ” của mình không làm gì được hắn. Thôi, chúng ta đi vậy.
Ngư, Tiều, Canh, Độc vội lên tiếng hỏi :
- Thưa thầy chúng mình về đâu đây?
Nhất Đăng đại sư nghiêm nghị rằng :
- Hồi còn sinh tiền, Vương chân nhân đã ủy thác cho thầy về nhiệm vụdùng “Nhất Dương chỉ” khắc chế Lão Độc Vật, nào hay giờ đây đã sinhbiến, “Nhất Dương chỉ” bây giờ không làm gì nổi Âu Dương Phong được nữa, bởi vậy thầy phải về lại Đào Nguyên sơn cốc, cố thêm mấy năm nữa đểluyện lại ngón “Nhất Dương chỉ” rồi tìm cách phá lối “nghịch chuyển kinh mạch” của Tây Độc, vậy hãy mau mau về cho rồi.
Bốn đệ tử bây giờ mới hiểu ra ý thầy, cùng nhau cáo biệt nhóm Hồng Thất Công ra về luôn.
Hồng Thất Công thấy thầy trò Nhất Đăng vừa đi, cuống quít lên gọi lại :
- Kìa, lão hòa thượng, thế còn thằng độc vật nó đi về hướng nào?
Nhất Đăng đại sư quay đầu lại :
- A di đà Phật! “Lãng diệp vô căn, phù bình vô định” (lá rụng không còngốc, bèo nổi vô định hướng), cuộc chạm trán giữa bần tăng vơi Âu DươngPhong đã cách hơn một ngày, bần tăng làm sao biết rõ hắn ở đâu? Thấthuynh, xin huynh hãy tự đi tìm vậy.
Sau mấy câu nói này, thầy trò Nhất Đăng đại sư bỏ tuốt đi luôn.
Hồng Thất Công đưa mắt nhìn với một vẻ buồn lâng lâng.