Luyện võ xong đã là giữa giờ tỵ ( khoảng 10h sáng), Nguyên Hãng tắm rửa qua loa, thay y phục rồi đến nơi chuẩn bị tiệc cho buổi chiều. Tuy rằng thời gian diễn ra là giờ dậu ( khoảng 17h chiều) nhưng công việc chuẩn bị đã bắt đầu từ tối hôm qua.
Danh sách khách có khoảng gần một trăm người, thời này chỉ ngồi bốn người một bàn, như vậy phải chuẩn bị khoảng hai mươi lăm bàn. Số lượng cũng không phải quá nhiều, nhưng ở xã hội này, nơi mà thực phẩm vật tư còn thiếu thốn rất nhiều thì việc chuẩn bị sẽ mất nhiều thời gian hơn.
Ở xã hội hiện đại, đơn giản là đi ra chợ mua đồ, muốn ăn gì cũng có thể mua được nhưng ở thời đại này thì không có điều kiện như vậy. Đời sống người dân còn chưa cao, cơm còn chưa đủ no thì nói gì đến rượu thịt, tiếc tùng.
Thêm vào những năm này chiến loạn liên miên, triều đình liên tiếp trưng thu các loại tô thuế, khiến cuộc sống của người dân ngày càng cùng cực. Hàng quán, buôn bán trở lên tiêu điều. Đồ ăn chuẩn bị cho bữa tiệc hôm nay đều chuyển đến từ trang viện ngoài thành của nhà Nguyên Hãng.
Chủ yếu là gà, lợn, ít rau củ. Thời này món ăn cũng rất đơn giản, như nhà Nguyên Hãng mỗi bữa cũng chỉ có một món thịt, một món cá, một món rau và cơm. Còn dân thường chỉ có cơm độn với rau dại mà thôi, hơn nữa còn chẳng đủ no.
Hôm nay mở cỗ, mỗi bàn có một con gà luộc, một con cá chép hấp, một đĩa thịt lợn quay và một đĩa rau củ tươi. Nếu ở thế kỷ 21, một bữa ăn như vậy cũng chỉ là một bữa tiếp khách thông thường, bất quá tốn vài trăm nghìn, nhưng thời này đó là cả một sự xa xỉ mà dân thường chẳng bao giờ dám mơ tới.
Lại nói về tiền tệ giai đoạn này, hiện giờ triều đình vẫn đang tiếp tục dùng đồng Đại Trị thông bảo được phát hành từ thời vua Dụ Tông, tiền có lỗ ở giữa, có gờ và mép không rõ. Mặt trước tiền ghi Đại Trị thông bảo, mặt sau để trơn. Tiền nhỏ, mỏng, đường kính khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu minimét.
Một lạng bạc bằng một quan, một quan bằng mười tiền, một tiền bằng sáu trăm bảy mươi đồng ( còn gọi là văn tiền). Tỷ giá trên chỉ áp dụng với việc trao đổi, buôn bán trong dân gian, còn khi nộp thuể cho triều đình thfi phải nộp theo tỷ lệ một quan bằng bảy trăm đồng.
Thời kỳ này nhà Trần còn chưa phát hành tiền giấy, tiền đúc hoàn toàn bằng một loại hợp kim. Theo Nguyên Hãng thấy nó khá giống hợp kim của đồng bởi có màu vàng đỏ khá đặc chưng nhưng có lẽ nó có thêm sắt, thiếc ở trong vì đồng tiền khá nặng, lại khá cứng so với đồng nguyên chất.
Do lượng kim loại có hạn nên số lượng tiền đúc ra cũng không quá lớn, thường dân chúng ít khi có nhiều tiền trong người. Ở vùng nông thôn vẫn là hình thức đổi vật lấy vật, chỉ có những vùng mà giao thương phát triển thì mới phổ biến việc dùng tiền mua hàng.
Ngàoi tiền do triều đình phát hành, cũng có một số loại tiền của các nước khác được thương nhân sử dụng trong việc trao đổi.
Hàng hóa, lương thực thực phẩm ở những năm thịnh thế cũng có giá không quá cao, ví dụ mười văn tiền đã mua được một thăng gạo ( một thăng gạo bằng khoảng một kg, một đấu bằng mười thăng, tức là bằng khoảng mười kg). Nhưng hiện giờ chiến loạn liên miên, sản xuất đình trệ khiến sản lượng lương thực suy giảm.
Một thăng gạo phải mất tới hai mươi văn tiền, hơn nữa đều là gạo xấu. Một nhà năm người cần ít nhất hai lăm đến ba mươi thăng gạo một tháng. Cũng có nghĩa là một nhà như vậy cần tới năm đến sáu trăm văn tiền một tháng.
Thời này sản xuất lương thực còn ở hình thức sơ khai, sản lượng một sào ( một sào bằng mười thước và bằng ba trăm sáu mươi mét vuông) chỉ khoảng ba, bốn đấu; cũng tức là khoảng ba mươi đến bốn mươi kg thóc một sào.
Nếu một hộ nông dân có một mẫu đất, thu hoạch một năm hai vụ vào khoảng sáu tạ thóc. Trong đó phải 2nộp thuế thân một quan tiền trên một suất đinh, lại thêm thuế điền một trăm thăng thóc một mẫu. Tính ra tổng số thuế phải đóng chiếm hết một nửa thu hoạch.
Nếu là những năm mưa thuận gió hòa, không có binh tai thì cũng tạm đủ ăn. Nhưng chiến tranh, thiên tai, địch họa khiến sản xuất hoang phế, thu hoạch được một nửa đã là tốt lắm rồi. Vậy mà triều đình vẫn không hề giảm tô thuế, thậm chí để bù lại chi phí cho những cuộc chiến còn tăng thêm các loại thuế phú.
Cuộc sống của người dân đã cực khổ nay lại càng lầm than. Đã không còn cảnh quốc thái dân an của những năm đầu khai quốc nữa. Rất nhiều nông hộ đã bỏ ruông, đất của mình vì không đóng nổi tô thuế. Thay vào đó họ đi làm thuê cho các nhà phú hào, quan lại, quý tộc.
Mà cũng nhân cơ hội đó quý tộc, quan lại, cường hào đua nhau thâu tóm ruộng đất, người giàu thì ngày càng giàu, còn người nghèo thì ngày càng đói rách.
Nhà Nguyên hãng vốn đất phong ban đầu cũng chỉ vài trăm mẫu ruộng ở khu vực kinh thành và đất tổ Thiên Trường. Nhưng hiện giờ theo Nguyên Hãng biết chỉ vùng ven kinh thành, nhà cậu đã có mấy tòa trang viên lớn, mấy ngàn mẫu đất thẳng cánh cò bay. Chỉ riêng nông hộ làm thuê cũng tới mấy trăm hộ.
Mà không chỉ nhà Nguyên Hãng, tất cả tông thất, quý tộc, quan lại đều như vậy. Hiện nay phần lớn ruộng đất đều nằm trong tay những tầng lớp này, người dân lại chẳng có bao nhiêu đất ruộng. Vì vậy thuế phú của triều đình cũng ngày càng giảm đi.
Vài quan tiền đủ cho một nhà năm người dân thường ăn trong ba, bốn tháng chứ chẳng chơi. Bữa tiệc hôm nay, Nguyên Hãng nhẩm tính phải hết tới gần trăm quan tiền. Số tiền này đối với nhà cậu thì cũng không tính là gì.
Thế mới thấy dù ở thời nào, vẫn luôn có sự chênh lệch giàu nghèo. Nguyên Hãng tuy có chút suy nghĩ nhưng cậu cũng không thể thay đổi được gì. Thời thế hiện giờ không phải một người mới bước vào hơ một năm có thể thay đổ được.
Lúc này gà lợn đã giết mổ xong, đang chuẩn bị cho việc chế biến. Kẻ làm, người ở đang bận rộn cả một khoảng sân lớn, Nguyên Hãng chỉ đứng quan sát một chút rồi quay ra. Việc ở đây đều có người lo, cậu đến chỉ là xem một chút không khí làm cỗ của ngày xưa mà thôi.
Ăn trưa xong, lại ngủ một giấc, tận giữa giờ mùi ( khoàng 14h chiều) Nguyên Hãng mới thức dậy, lúc này cậu phải tiếp một vài người khách. Nói là tiếp khách cho sang mồm, thực ra toàn là mấy thằng quen mặt, có thằng Đáng, thằng Nam và một vài thằng lúc trước cùng học một lớp với Nguyên Hãng.
Đám này thường thường đến lớp lúc nào cụng muộn nhất. nhưng ăn chơi nhậu nhẹt thì lại rất đúng giờ. Không hiều hôm nay có việc gì mà còn cả canh giờ nữa mới đến hẹn mà bọn này đã mò đến rồi.
Chỗ Nguyên Hãng tiếp khách không phải là phòng lớn ở phía trước, mà là một cái đình nhỏ giữa hồ, ngay cạnh khu phòng của cậu. Ra đến nơi đã thấy có sẵn, bốn, năm thằng choai choai đnag ngồi uống nước, cắn hạt bí , không rõ nói chuyện gì mà có vẻ hơi lộn xộn.
Vừa thấy Nguyên Hãng, thằng Đáng vốn đang phồng mồm trợn mắt cãi nhau với thằng Nam liền chạy tới túm cổ áo cậu rồi hỏi.
- Ê Hãng, tao thấy thằng Nam nói mày sẽ được diện kiến thượng hoàng hả? lại còn được cho một đặc ân nữa chứ?
Nguyên Hãng ngớ người, việc này cậu mới được cha nói ngày hôm qua, hơn nữa cũng chẳng truyền ra ngoài, sao thằng Nam này lại biết. Khẽ nhìn về phía thằng Nam và đám kia, rồi lại hất tay thằng Đáng ra, Nguyên Hãng vờ nói.
- Diện kiến thượng hoàng và quan gia là cha tao, đặc ân cũng là của cha tao chứ đâu có liên quan gì đến tao. Không lẽ mày không nghe cha mày nói gì à Đáng.
Thằng Đáng nghe xong liền quay mặt về đám còn lại, cằm hất lên.
- Tao đã nói mà, cha tao cũng nói như vậy. Đó là việc cá cược giữa hai vị chú bác, nào có nghe thấy nói gì đến việc kia đâu. Mày còn cãi với tao không Nam.
Thằng Nam vẻ mặt hoài nghi, lưỡng lự một lúc có vẻ định không cái lại. Nhưng có lẽ do vẻ mặt vênh váo của thằng Đáng làm nó không ưa nổi nên bật lại.
- Hừ cái đó thì tao cũng nghe cha nói, nhưng cha tao bảo việc cho diện kiến và đặc ân tuy là nói cho Cung Tín Vương nhưng thực chất ai cũng rõ đó là cố ý ban cho anh Hãng, cha tao còn bảo nếu anh Nguyên Hãng biết cách nói chuyện đúng với ý thượng hoàng không chừng còn được phong thưởng quan cao nữa .
Nguyên Hãng khẽ giật mình, không ngờ cha của thằng Nam cũng có thể suy đoán ra điều đó, ai bảo tông thất toàn kẻ ngốc. Giật minh thì giật mình nhưng Nguyên Hãng cũng chả dại gì mà thừa nhận, cậu giả ngốc nói.
- Ta chỉ nghe cha nói như thằng Đáng chứ không thấy ông nhắc đến việc mình có được diện kiến thượng hoàng hay không. Mà dù có được diện kiến thì cũng đâu có gì to tát, không lẽ gặp hai ngài xong ta sẽ được phong tướng quân chắc.
Mấy đứa xung quanh nghe Nguyên Hãng nói cũng có lý, dù sao đó chỉ là suy đoán của người ngoài cuộc. Quay lại hiện trường, Nguyên Hãng ngồi xuống ghế, hỏi lại cả đám.
- Nói đi, rốt cuôc có chuyện gì mà cả đám bọn mi kéo tới chỗ tao sớm vậy. Đừng nói đến kiếm ăn trước nhé.
Mấy thằng này nhìn nhau rồi đều nhếch miệng cười, không hiểu sao Nguyên Hãng càng nhìn càng thấy nụ cười của bọn này cứ đểu đểu. Thằng Đáng đưa tay vò đầu, cười rất vô hại nói.
- Không có gì, thi xong rồi, không phải đến thái học, ngồi nhà không cũng chán, đến tìm mi tâm sự chơi thôi mà.
Mấy thằng khác cũng hùa vào đồng ý. Nguyên Hãng nhìn bọn nó với ánh mắt “ tin được lời chúng mày thì chó đi được bẳng hai chân”. Cậu cũng chả vội vàng gì, lấy cốc nước lên uống, mắt nhắm lại, không thèm quan tâm đến bọn nó.
Thấy biểu hiện của Nguyên Hãng, bọn bên cạnh trở lên ngại ngùng, tuy nói nhắm mắt nhưng Nguyên Hãng vấn khẽ liếc trộm phản ứng, thấy sự mất tự nhiên của bọn này, cậu dám chắc chúng nó có chuyện nên mới đến tìm cậu sớm như vậy,cậu nghĩ trong đầu.
“ Để xem chúng mày nhịn được đến khi nào”