Khi ấy Hốt Tất Liệt ba mươi tám tuổi, là một vương gia quyền cao chức trọng, một lời nói ra, vạn người phải tuân theo, vốn dĩ chỉ có kẻ khác phải vái lạy ngài, giờ đây buộc ngài phải vái lạy và nhận một người tuổi đời chỉ bằng nửa tuổi ngài làm sư phụ, e rằng ngài khó lòng chấp thuận.
Lúc này, Bát Tư Ba mới chắp tay, khẽ cúi người mà rằng:
- Từ xưa đến nay, các đệ tử đều hành lễ với sư phụ như vậy. Đại vương là người có thân phận tôn quý, không bằng lòng vái lạy cũng không sao, nhưng thượng sư nhất định phải được tọa trên ngai cao. Nếu như chút chuyện nhỏ này Đại vương cũng kiên quyết không chấp thuận, vậy xin chớ tôn bần tăng làm thượng sư của ngài và cũng không cần phải tiếp nhận chân ngôn mật chú của phái Sakya làm gì.
Hốt Tất Liệt chừng như tức nghẹn cổ, vì đây không phải lần đầu tiên Bát Tư Ba chống lại ý nguyện của ngài. Thái độ kiên quyết tuân thủ nguyên tắc của Bát Tư Ba khiến người ta vừa bực bội vừa buồn cười. Nhận thấy bầu không khí sắp có chiều hướng xấu đi, Khabi vội vàng bước đến, yêu kiều vái lạy Hốt Tất Liệt, thưa rằng:
- Bẩm Đại vương, thần thiếp có ý thế này.
Nàng đưa mắt quan sát thần sắc của hai người, dịu dàng cất tiếng:
- Lúc nghe giảng pháp và ở những nơi vắng người, thượng sư có thể tọa trên ngai cao. Khi các bậc vương tử, phò mã, quan viên và thần dân tụ họp, Đại vương cần thiết phải thể hiện sự tôn nghiêm, ngài sẽ ngự trên ngai cao. Pháp sư và Đại vương thấy sao?
Hốt Tất Liệt thở phào nhẹ nhõm, giọng nói cũng khoan hòa hơn nhiều:
- Vương phi nói phải lắm, cứ làm theo ý nàng!
Hốt Tất Liệt đã nhượng bộ như vậy, Bát Tư Ba cũng không có lý do gì từ chối. Cậu ấy suy nghĩ một lát, lại bước lên phía trước, tâu rằng:
- Bẩm Đại vương, bần tăng vẫn còn một thỉnh cầu.
Khabi sợ cậu ấy lại nêu ra “yêu sách” gì đó khiến Hốt Tất Liệt bực dọc, vội vàng nháy mắt ra hiệu, nhưng Bát Tư Ba vẫn vờ như không nhìn thấy, cúi gập người, cung kính thưa rằng:
- Những việc liên quan đến Tufan, cúi xin Đại vương thuận theo ý của bần tăng.
Hốt Tất Liệt nhìn chăm chăm vào Bát Tư Ba rất lâu, sau đó khẽ thở dài:
- Những ngày qua cùng thượng sư đàm đạo, ta rất mực nể phục phẩm cách thanh cao và kiến thức sâu rộng của thượng sư. Nay thượng sư đã mở lời thỉnh cầu, vậy ta quyết định thế này, phàm những việc liên quan đến Tufan, ta sẽ nghe theo sự chỉ dạy của thượng sư, nếu thượng sư không đồng ý, ta quyết không ban chiếu chỉ. Còn những việc lớn nhỏ khác, xin thượng sư chớ vì thiện tâm mà cầu xin cho kẻ khác, làm khó cho ta, vì như vậy sẽ khiến ta khó lòng thu phục kẻ dưới.
Bát Tư Ba khẽ giật mình, cậu hiểu một người tôn quý như Hốt Tất Liệt lại hứa hẹn với mình như vậy quả không dễ dàng gì. Bởi vậy, Bát Tư Ba ngước đôi mắt sáng rạng rỡ lên, gật đầu bày tỏ sự đồng ý tuyệt đối.
Khi các vấn đề “gai góc” đều đã được giải quyết ổn thỏa, tâm trạng của Hốt Tất Liệt trở nên hân hoan hơn nhiều, ngài khoát tay ra lệnh cho đám tùy tùng dâng rất nhiều lễ vật quý báu: ngọc ấn mỡ cừu, áo cà sa đính trân châu, ngoài ra, còn có những bộ y phục của tăng sĩ được cắt may rất kỳ công, những tấm đệm dát vàng, v.v… chất đầy cả lán trại.
Hốt Tất Liệt đắc ý nhìn núi lễ vật chất ngất, cười sảng khoái:
- Thượng sư, ta định ban bố một sắc lệnh, chỉ cho phép vùng Wusi được tu tập giáo pháp của giáo phái Sakya, ngài thấy sao?
- Đại vương, tuyệt đối không thể được! – Bát Tư Ba biến sắc mặt, vội bước lên phía trước can gián. – Đất Tạng có rất nhiều giáo phái, các giáo phái lớn đều đã trải qua hàng trăm năm lịch sử với số lượng tín đồ đông đảo, thực lực tương đương nhau. Nếu Đại vương ép buộc họ tin theo giáo phái Sakya, chỉ e sẽ phản tác dụng, khiến cho đất Tạng rối loạn. Sau khi vương triều Tufan sụp đổ, vùng Wusi đã ly loạn suốt mấy trăm năm, không thể để tình trạng này ngày càng trầm trọng. Các giáo phái lớn tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đều phụng thờ Phật Tổ, mỗi giáo phái đều có nét đặc sắc, độc đáo của riêng mình. Sakya đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích từ các giáo phái đó.
Hốt Tất Liệt chừng như rất cảm động, lòng tôn kính đối với Bát Tư Ba lại được dịp tăng thêm:
- Thượng sư không vì lợi ích của giáo phái mình mà suy tính cho đại cục, quả là người có tấm lòng quảng đại.
Sau khi bái Bát Tư Ba làm thượng thư, Hốt Tất Liệt lập tức trao cho Bát Tư Ba một chiếu thư với thân phận vương gia. Chiếu thư mô tả quá trình Hốt Tất Liệt và Khabi quy y cửa Phật và tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh. Vương gia Mông Cổ ban chiếu thư vốn là sự kiện hết sức bình thường vào thời điểm đó, hơn nữa Hốt Tất Liệt còn tuyên bố trong chiếu thư rằng, chiếu thư được ban bố là nhờ phúc đức của Thành Cát Tư Hãn và Mông Kha Hãn. Điều đáng nói là, đối với giáo phái Sakya đang trong tình thế khốn đốn, chiếu thư này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó tuyên bố với mọi tăng nhân ở đất Tạng rằng, Hốt Tất Liệt và Bát Tư Ba đã kết thành quan hệ thượng sư và đệ tử, và giáo phái Sakya chính thức nằm dưới sự bảo hộ của Hốt Tất Liệt.
Đây là chiếu thư chính thức đầu tiên mà Hốt Tất Liệt ban tặng cho Bát Tư Ba nên cậu ấy xem nó như một món quà quý giá, luôn mang theo bên mình. Về sau, khi cậu ấy trùng tu đền Sakya, bức chiếu thư này đã được cất giữ trong đại điện của ngôi đền, đến tận ngày nay.
Ngày thứ ba sau khi Bát Tư Ba được thụ phong làm thượng sư cũng là ngày người Hán đón năm mới. Tuy là người Mông Cổ nhưng Hốt Tất Liệt đón nhận văn hóa truyền thống của người Hán hết sức cởi mở. Từ khi tiếp nhận trọng trách thống lĩnh quân đội miền Nam, ngài đã chiêu nạp hàng loạt nho sĩ người Hán, thực thi luật pháp của người Hán tại các khu vực mình cai quản. Các quý tộc Mông Cổ khác thường chê trách ngài về điều này nhưng Hốt Tất Liệt bỏ ngoài tai hết thảy.
Vào ngày cuối cùng của năm cũ, Hốt Tất Liệt ban phát rượu thịt cho toàn quân, Khabi cùng với những người hầu gái nô nức dán câu đối và chữ “phúc” khắp các lán trại theo phong tục của người Hán. Đêm Giao thừa, tuyết rơi ào ạt nhưng tiếng cười nói vẫn rộn ràng khắp doanh trại. Vì là đoàn quân viễn chinh nên mọi thứ đều khá đơn sơ, mộc mạc, nhưng không khí ngày Tết không vì thế mà kém phần náo nhiệt. Sau khi yến tiệc kết thúc, Bát Tư Ba trở về lán trại của mình, lập tức ngồi vào bàn viết. Tôi sáp lại, dò hỏi:
- Cậu viết gì thế?
Cậu ấy tặng cho tôi nụ cười rạng rỡ tựa gió xuân, cọ cọ cán bút vào chiếc mũi nhọn hoắt của tôi:
- Viết lời chúc mừng năm mới Đại vương.
Viết xong, cậu ấy nhẩm đọc một lượt, rồi mới thận trọng gập lại, bỏ vào túi gấm, quay lại nhìn tôi, mắt sáng long lanh như sao mai, vành môi uốn cong quyến rũ:
- Lam Kha, zhaxidele, chúc mừng năm mới!
Lòng tôi phơi phới, tôi ngước nhìn nụ cười ấm áp của cậu ấy, khẽ nói:
- Chúc mừng năm mới!