Đêm đó.
“Nào, ta kính các vị một ly!” Tạ An tổ chức một bữa tiệc nhỏ chúc mừng cho mình, gọi cả gia quyến đến, phu nhân y mỉm cười đích thân rót rượu cho các tiểu bối.
“Kính Tạ đại nhân một ly!” Phùng Thiên Quân nâng ly.
Tiêu Sơn cùng Hạng Thuật cũng tỏ ý chúc mừng, Trần Tinh thì trưng khuôn mặt vô cảm: “Tạ sư huynh, huynh quả nhiên chưa từ bỏ ý định nhỉ.”
Trần Tinh tưởng y chỉ hứng thú nhất thời mà thôi, nhè có ngờ Tạ An lại mong được làm thầy trừ tà mãnh liệt vậy đâu, sau cùng còn xúi giục hoàng đế ngang ngạnh nhét vô, sống chết gì cũng phải đưa mình vào sở.
“Đây là rượu ngon nhất trong hầm của lão gia, rượu khá mạnh nên mọi người uống chậm thôi.” Phu nhân Tạ An là em gái của danh sĩ Lưu Đàm, cũng xuất thân danh môn Giang Nam, bà cười nói, “Từ khi mọi người đến, lão gia cứ suốt ngày lầm bầm làm sao để giúp Trần đại nhân vượt khó.”
“Lần sau diệt rồng,” Tạ An nói, “có thể dẫn huynh theo không.”
Trần Tinh đỡ trán, Hạng Thuật nói: “Tự bảo vệ mạng nhỏ của mình đi.”
Tạ An: “Dĩ nhiên rồi, tiểu sư đệ, mấy nay huynh luyện công pháp cũng nhiều, chừng nào vạn pháp phục sinh sẽ phát huy tác dụng… được rồi, phu nhân, nàng đi nghỉ trước đi, bọn ta có việc cần bàn.”
Lưu thị mỉm cười vào trong, Trần Tinh buồn cười nhìn Tạ An, chừng này tuổi rồi, lại còn là quan cực phẩm, song vẫn chưa quên nguyện vọng ban đầu khi còn là thiếu niên. Giờ ngẫm lại, đều do mình nhìn không thấu.
“Được rồi,” Trần Tinh nâng ly, “hoan nghênh Tạ sư huynh, sau này mong được Tạ sư huynh chăm sóc nhiều hơn.”
“Thế mới phải chứ.” Tạ An vỗ bàn, uống rượu với mọi người, giữa tiệc vẫn không quên nhắc tới Thi Hợi, Thần Châu, Tâm Đăng, Bất Động Như Sơn, và vụ án lớn ba trăm năm trước. Tạ An vất vả mãi mới thành thầy trừ tà, giờ đây, những giai thoại huyền thoại trong truyền thuyết đã không còn là việc không liên quan đến mình nữa, mà đã gần trong gang tấc, y nói chuyện càng thêm hăng hái, như thể mấy tháng nữa vạn pháp sẽ phục sinh, mọi người cùng bước trên con đường tươi sáng.
Xem như sở trừ tà được gầy dựng lại rồi sao? Trần Tinh nghĩ, hai năm nữa mình ra đi, mình đi rồi, có lẽ Hạng Thuật không ở lại sở trừ tà nữa, có khả năng sẽ về phương Bắc làm Đại Thiền Vu, vậy thì đặt sở trừ tà mới ở phía Nam đi, giao cho Tạ An là lựa chọn tốt nhất.
Tạ An hiển nhiên rất tò mò về “huyễn thế”, hỏi không ít vấn đề, nói: “Có phải Âm Dương giám là huyễn thế không?”
Trần Tinh giải thích: “Nói đúng ra, ‘huyễn thế’ không phải một thế giới độc lập, không phải như các ngươi hiểu. ‘Huyễn thế’ dùng để chỉ ‘hiện thế’, diện mạo Thần Châu mà người phàm nhìn thấy chính là hiện thế. Còn thứ thầy trừ tà thấy dưới hiện thế, có mạch thiên địa, có linh khí, có yêu có ma, ấy gọi là ‘huyễn thế’. Đây là ý nghĩa của biểu lí sơn hà, hiện thế là bề ngoài, huyễn thế ở bên trong.”
Tạ An nói: “Vậy ra huynh đã nhìn lén được cảnh tượng ở huyễn thế rồi.”
Trần Tinh không biết nên khóc hay cười: “Cũng… có thể nói vậy. Nhưng các thầy trừ tà không trường sinh bất lão, vĩnh sinh bất tử, bay lên trời chui xuống đất, không gì không làm được như các ngươi nghĩ đâu, thầy trừ tà cũng có quy tắc của mình, e rằng sau này huynh sẽ thất vọng.”
Tạ An: “Huynh hiểu, hiểu mà! Xưa nay huynh chưa bao giờ nghĩ đến việc trường sinh bất tử, còn pháp thuật, cũng giống như thế gia tập võ, khi dạy đệ tử, nguyên tắc đầu tiên là không được tùy tiện đánh người không có võ công, đây là quy định bất thành văn.”
Trần Tinh nói một cách chân thành: “Chưa chắc đã đúng, cũng có ai kia ỷ mình giỏi võ nhất thiên hạ, thường hay dọa nạt đánh chết ta.”
Hạng Thuật: “…”
Tiêu Sơn uống rượu vào nói cũng nhiều hơn, nghe cậu nói thế thì không vui: “Ai muốn đánh chết người?!”
Trần Tinh xua tay, ra hiệu ta đùa tí thôi, đoạn quay sang nói với Tạ An: “Ta thường không trông nổi Tiêu Sơn, nhờ huynh để ý giúp.”
“Tiêu Sơn là đứa trẻ ngoan,” Tạ An vui vẻ nói, “đợi ra ngoài thu yêu, nó còn chăm sóc ngược lại huynh nữa là.”
Hạng Thuật nghe vậy thì khẽ nhíu mày, Phùng Thiên Quân cũng nghe ra được bất thường, bèn cười hỏi: “Sao lại nói thế?”
Trần Tinh cũng nhận ra, vội lảng sang chuyện khác, Tiêu Sơn hỏi: “Các ngươi quen nhau lúc nhỏ à?”
“Ừ.” Hôm nay Tạ An được thỏa tâm nguyện ấp ủ từ lâu, không có gì phải giấu, liền kể lại chuyện mình từng lên Hoa sơn thăm Bách Lí Luân và Trần Tinh lúc nhỏ: “Lần đầu gặp tiểu sư đệ, y cũng bằng chừng này tuổi ngươi.”
Trần Tinh nhớ lại khoảng thời gian sống trên núi, ngỡ như đã qua mấy đời, bảy tuổi đến mười sáu tuổi cứ như bẵng qua chớp mắt, thế mà từ mười sáu đến mười tám lại như đã trải qua một đời tráng lệ.
Nói đến Hoa sơn, Tạ An biết rất ít, nhưng Trần Tinh có rất nhiều chuyện thú vị, mà chuyện thú vị trong ấn tượng của cậu chỉ đơn giản là theo sư phụ đọc mấy cuộn sách được sở trừ tà để lại, những việc vặt nhàm chán như dùng châm xem bệnh cho gấu, nối xương gãy cho chim, mò cá sau núi, Bách Lí Luân còn là người trầm tĩnh kiệm lời, nên khi còn nhỏ Trần Tinh đã phải tự tìm niềm vui cho mình.
Đối với một đứa trẻ nhơ nhỡ, ẩn cư trong núi rất cô đơn, nên Trần Tinh có thể hiểu cho Tiêu Sơn, vì thời thơ ấu của nó không khác cậu nhiều lắm. Nhưng nói tới nói lui, Trần Tinh chợt thấy những việc này có vẻ khá nhàm chán và tẻ nhạt với họ, chỉ còn Hạng Thuật chăm chú lắng nghe.
Vì vậy Trần Tinh ngừng kể: “Tửu lượng không tốt nên hơi dong dài, mọi người đừng trách nhé.”
Tạ An bèn xua tay, mọi người tiếp tục chè chén, Hạng Thuật hỏi Trần Tinh: “Sinh thần ngươi khi nào?”
“Hả?” Trần Tinh cười, “Sao tự dưng hỏi chuyện này? Mười bảy tháng tám.”
Mọi người kinh ngạc một lúc, Hạng Thuật bất mãn: “Hôm qua? Sao không nói gì?”
Trần Tinh cười tự giễu: “Xưa giờ có chúc mừng gì đâu, nên cũng quên luôn. Huynh thì sao?”
Hạng Thuật im lặng một thoáng, tránh ánh mắt tò mò của Trần Tinh, hờ hững nói: “Tháng hai.”
“Ồ,” Phùng Thiên Quân nói, “không phải lúc chúng ta mới quen nhau sao?”
Hạng Thuật: “Một tháng hai, còn chưa quen ngươi đâu.”
“Một tháng hai à.” Trần Tinh sực nhớ, đó chẳng phải cái ngày cậu tìm thấy Hạng Thuật trong nhà lao ở Tương Dương sao?!
Chủ đề này không tiếp tục được nữa, nếu Trần Tinh đã khơi chuyện, thì Tạ An cũng bắt đầu kể về chuyện còn bé, song mọi người đã nghe từ lâu, vẫn là thời niên thiếu đọc được trong sách, nghe truyền thuyết dân gian, mơ về hiệp khách núi tiên. Kể xong, tới lượt Tiêu Sơn, Trần Tinh hỏi nó: “Sinh thần ngươi khi nào, nhớ không?”
Tiêu Sơn cũng không biết sinh thần của mình, nó được sói đưa đến Tạp La Sát khi còn quá nhỏ. Phùng Thiên Quân hỏi tiếp: “Chắc ngươi ở Tạp La Sát chán lắm nhỉ.”
Tiêu Sơn đáp: “Không chán, Lục Ảnh dẫn ta lên núi chơi cả ngày lận kìa.”
Hạng Thuật liếc nhìn Trần Tinh, Trần Tinh cười nói: “Thế thì ngươi tốt hơn ta nhiều rồi, sư phụ ta hơi yếu nên ngày nào cũng ở nhà.”
Tiêu Sơn kể vài chuyện ở Tạp La Sát, nói: “Ở Tạp La Sát cũng có mạch Địa, phát sáng trong sơn động.”
Trần Tinh nghĩ ngợi: “Chắc Thi Hợi không trốn ở Tạp La Sát đâu nhỉ?”
“Cáp Lạp Hòa Lâm cũng có ư?” Hạng Thuật chợt hỏi, “Ngươi biết không?”
Tiêu Sơn mờ mịt lắc đầu, mọi người lại chuyển sang người kế tiếp. Đến lượt Phùng Thiên Quân, Phùng Thiên Quân kể về thời thơ ấu của mình, nào là những tháng ngày chung sống với huynh trưởng, bái một vị lãng nhân(*) làm thầy, luyện đao pháp, mọi người cùng nghĩ đến Phùng Thiên Dật, thở dài đầy thổn thức.
(*) lãng nhân – chiến binh lang thang. Bên Nhật dùng để gọi những samurai không còn chủ tướng.
Tạ An là người quen cũ của Phùng Thiên Dật, không khỏi nói: “Không ngờ Phùng Thiên Dật lại rơi vào tình cảnh này.”
“Bởi vậy,” Phùng Thiên Quân thở dài, “ta muốn báo thù cho đại ca, giải quyết xong chuyện này ta mới nguôi ngoai được, mới có thể thành thân với Thanh Nhi.”
“Chuyện thế gian,” Tạ An nói, “chẳng đợi chờ một ai, Thiên Quân, ta nhìn huynh đệ ngươi lớn lên, việc nên làm thì làm ngay đi, nghĩ đến hiện tại, chớ đừng nhìn tương lai.”
Trần Tinh nghe vậy không khỏi nghĩ đến mình và Hạng Thuật, ánh mắt nhìn hắn toát lên chút cô đơn.
Hạng Thuật tránh tầm mắt của Trần Tinh, uống rượu, tới lượt hắn thì hắn bỗng đứng dậy: “Ta đi trước.”
Hạng Thuật uống nốt rượu, đứng dậy mà chẳng nói chẳng rằng, mọi người than thở mấy tiếng, Trần Tinh bất đắc dĩ lắc đầu, biết Hạng Thuật không muốn nói về quá khứ, quá khứ của hắn đã chìm vào lãng quên kể từ ngày rời khỏi Sắc Lặc Xuyên, chỉ mỗi Trần Tinh, người duy nhất liên quan hãy còn nhớ rõ như in.
Tạ An ra hiệu cho Trần Tinh đi xem, Trần Tinh ăn thêm chút mới đứng dậy: “Ta cũng đi ngủ, các ngươi uống tiếp đi.”
Tiệc rượu chưa tàn, Trần Tinh chào đón làn gió mát của đêm thu, ánh sao bao phủ khắp đình viện, cậu định về phòng, song bất giác đã đến viện Hạng Thuật ở.
“Hộ pháp, ngươi ngủ chưa?” Trần Tinh hỏi.
Không nghe tiếng người đáp lại, Trần Tinh khẽ đẩy cửa viện vào, trong phòng vẫn để cửa, Hạng Thuật chỉ mặc quần trong dài tới gối, đi dép da, nửa thân để trần. Hắn đứng trước bàn, cơ bắp trắng nõn thon gầy hiển hiện dưới ngọn đèn, đường nét vai lưng vô cùng hoàn mỹ. Quả nhiên vận đồ tưởng gầy, cởi ra có thịt.
Hạng Thuật: “Ngươi nhầm phòng rồi.”
Trần Tinh: “Không nhầm đâu, tới thăm ngươi.”
Trên bàn trải một tấm bản đồ toàn cảnh núi non sông nước Thần Châu, bên cạnh đặt ba mảnh giấy do Hạng Thuật sao chép, trên giấy là vòng tay vỏ sò mà hắn mua ở chợ trong dịp thu xã. Ngay khi Trần Tinh tiến vào, Hạng Thuật liền cất nó đi, Trần Tinh thấy nhưng không nói gì.
“Không phải ngươi cũng thế sao,” Trần Tinh cười nói. “Còn nói ta? Mặc quần áo vào đi, kẻo cảm lạnh.”
Rượu uống lưng chừng đã về xem bản đồ, phỏng chừng vẫn vì tìm Định Hải châu.
Hạng Thuật nhíu mày, thấp giọng: “Không đáng ngại, rượu vào nhiệt rượu chưa tán. Ta nghĩ về mạch địa và thứ được gọi là ‘trận vạn linh’ kia. Ngươi xác định mình nghe thấy thật à?”
Lần Tư Mã Vĩ trò chuyện với Trần Tinh không có mặt người thứ ba, song Trần Tinh vẫn nhớ rõ mồn một từng câu: “Ta đảm bảo chính xác.”
“Ngươi lại đây xem.” Hạng Thuật nhướng mày nhìn Trần Tinh, nói.
Trần Tinh đến chỗ hắn, Hạng Thuật cởi trần, làn da nóng rẫy sau khi nốc rượu mạnh, cần cổ đỏ bừng, khi đến gần hơn, hơi thở nam nhân tràn ngập tính xâm lược, hệt như nhốt Trần Tinh vào hơi thở của mình, khiến cậu mặt đỏ tim đập, hô hấp nghẹn lại.
“Bắt đầu từ Tạp La Sát,” ngón trỏ thon dài của Hạng Thuật nhúng vào chu sa, chấm lên cực bắc của bản đồ, nói, “đây là những gì ta nghĩ đến từ lời Tiêu Sơn.”
“Có phải điểm tiết của mạch địa không?” Trần Tinh cũng phát hiện, nhưng mỹ nam cởi trần đứng bên cạnh làm cậu không khỏi mất tập trung, đặc biệt là gần đây, không biết tại sao cậu ngày càng phát hiện sức hấp dẫn của Hạng Thuật, làm cậu mất ăn mất ngủ, càng nhìn càng thích, tim đập càng nhanh. Cậu kìm lòng chẳng đặng nhìn hắn một cái, đúng lúc Hạng Thuật cũng quay đầu nhìn cậu, họ đứng sát nhau, thậm chí có thể cảm nhận được hơi thở đôi bên quyện vào nhau, hơi thở của Hạng Thuật mang theo hương hoa trong rượu, khiến con tim Trần Tinh đập loạn xạ liên hồi.
Hạng Thuật mất tự nhiên quay đầu, song không kéo khoảng cách với Trần Tinh, giữ nguyên động tác ban đầu: “Ừ. Nhìn sang Cáp Lạp Hòa Lâm, nếu cũng có mạch địa… ta quyết định viết một phong thư nhờ Tạ An đưa Thạch Mạt Khôn, nhờ hắn giúp chúng ta điều tra lòng đất Cáp Lạp Hòa Lâm.”
“Vậy thì sao?” Trần Tinh nhìn ngón tay dính chu sa của Hạng Thuật chấm lên hai chỗ.
“Kiến Khang và Cối Kê,” Hạng Thuật đánh dấu vị trí thứ ba, “Giang Nam.”
“Ừ…” Trần Tinh nghiêng đầu nhìn, nói: “Ba chỗ. Ngươi đọc nhiều sách cổ thật đấy, biết rõ mạch địa ghê.”
“Đây là nghiên cứu của mẹ ta khi còn sống,” Hạng Thuật nói, “không có gì lạ. Nhìn những nơi Bạt xuất hiện, kế tiếp là Sắc Lặc Xuyên.”
Đã có ba điểm ở phía bắc bên ngoài Trường Thành.
“Tiếp theo là Trường An,” Hạng Thuật đánh dấu chu sa lên Quan Trung, “và Tương Dương phía Nam, núi Long Trung nối với Tương Dương.”
“Cũng là nơi đầu tiên chúng ta gặp Bạt.” Trần Tinh có ấn tượng khá sâu với nơi này.
“Giống cái gì?” Hạng Thuật nói, “Ngươi nhìn ra chưa?”
Trần Tinh nhìn sáu điểm trên bản đồ, nhớ lại lời Tư Mã Vĩ, bảy trận vạn linh ở địa địa Thần Châu… còn một nơi nữa: “Huynh cho rằng chúng đều nằm trên mạch địa? Vậy cái thứ bảy thì sao?”
Hạng Thuật cuối cùng cũng chỉ vào điểm thứ bảy, hỏi cậu: “Giờ thì sao?”
Trần Tinh nhìn một hồi, Hạng Thuật nối những điểm này từ Bắc tới Nam, nối Tạp La Sát, Cáp Lạp Hòa Lâm, núi Âm và Sắc Lặc Xuyên thành một đường, tới Lạc Dương, đại địa Trung Nguyên thì hiện ra một hình vuông.
Bốn thành của Trung Nguyên – Trường An, Tương Dương, Kiến Khang, Lạc Dương thành thân thìa.
Ba điểm phương Bắc, thành chuôi thìa.
“Bắc đẩu thất tinh!” Trần Tinh ngạc nhiên.
Hạng Thuật nói: “Sao Thiên Quyền nằm ở Lạc Dương, theo ta suy đoán, bảy nơi này cần lượng oán khí dồi dào mới có thể khởi động trận vạn linh. Kế hoạch của Thi Hợi ở Tương Dương, Tạp La Sát, Cáp Lạp Hòa Lâm, Sắc Lặc Xuyên và Trường An vốn đã thành công, do bị chúng ta cản trở mới bị cướp mất pháp bảo. Mà Ôn Triết và con rồng kia của hắn…”
Trần Tinh lẩm bẩm: “Mục đích là thu thập oán khí ở Kiến Khang.”
Hạng Thuật gật đầu: “Tiếp theo sẽ là Lạc Dương, có điều pháp bảo nằm trong tay chúng ta, Thi Hợi thiếu pháp khí, tà thuật dùng đại địa Thần Châu làm trận pháp tạm thời không thi triển được.”
Ngay từ đầu Trần Tinh cho rằng ‘trận vạn linh’ cần bảy trận pháp, song tìm mãi vẫn không thấy nơi bày trận, giờ mới biết có lẽ không có trận, hoặc đại địa Thần Châu được phân bố dựa trên bắc đẩu thất tinh theo mạch địa chính là trận.
Cũng tức là, Thi Hợi lợi dụng các Bạt vương, phân tán họ đến các nơi này, sau khi Phù Kiên dẫn quân xuôi Nam, trong cuộc hiến tế quy mô lớn sau cùng, ma thần Xi Vưu sẽ được hồi sinh.
“Mai ta sẽ đi núi Nam Bình.” Hạng Thuật nói, “Khuya rồi, ngươi về nghỉ đi.”
Trần Tinh đáp ‘ừ’, Hạng Thuật búng tay, gió chợt lùa tới thổi tắt đèn.
Trần Tinh định mượn men say tìm Hạng Thuật tâm sự, ngờ đâu Hạng Thuật chẳng nói gì với cậu ngoài chuyện trừ tà, lúc này Trần Tinh mới thấm thía câu ‘Trong đầu ngươi không còn gì khác nữa à?’ của Hạng Thuật. Thấy Hạng Thuật rõ ràng không định giữ cậu lại nên Trần Tinh đành rời khỏi phòng, Hạng Thuật bỗng cầm sáo khương đi ra, ngồi trên chiếc giường con đặt trong sân, đạp chân lên mép giếng thử âm.
“Huynh tính thổi sao à?” Trần Tinh bèn hỏi.
Hạng Thuật giương mắt hờ hững nhìn thoáng qua Trần Tinh, cau mày: “Sao còn chưa về?”
Trần Tinh đành quay lưng đi, vừa đi được mấy bước đã nghe ‘khúc phù sinh’ thân thuộc vang lên, so với lần ở Cáp Lạp Hòa Lâm thì nhẹ nhàng và bớt oanh liệt hơn nhiều.
Trần Tinh đưa lưng về phía Hạng Thuật, nghe tiếng nhạc trong gió thu, cậu ngừng bước ngoảnh đầu thoáng nhìn, Hạng Thuật cởi trần để lộ da thịt tắm dưới ánh trăng vằng vặc, quần trắng như tuyết, dải lụa xanh rủ xuống bên thái dương, hắn nhắm mắt, nét mặt chuyên chú, đẹp như ngọc mài.
Khi tiếng sáo cất lên, Tạ phủ nước chảy róc rách, núi đá cao ngất, trúc thu bát ngát như chợt bừng sức sống. Trong đêm trăng sáng soi rạng mảnh đất này, Trần Tinh dường như đã hiểu ý nhạc mà hồi trước ở Cáp Lạp Hòa Lâm cậu không hiểu.
Sự cô tịch ở đoạn mở khiến cậu ngỡ như trông thấy lần đầu hai người gặp nhau ở Tương Dương, Hạng Thuật gửi gắm hồi ức gì trong khúc phù sinh ư? Tiếp theo trong khúc nhạc hiện lên dáng dấp Trường An thịnh thế, vạn quốc thiên chung, rồi trong làn điệu lại âm ỷ nỗi đơn côi trống trải trên thảo nguyên ở Sắc Lặc Xuyên.
Là cậu nặng lòng lo nghĩ, hay Hạng Thuật đang thực sự hồi tưởng bằng tiếng sáo khương?
Trần Tinh trở về phòng, tháo cổ cầm xuống gảy vài cái, hòa âm cùng kiếp phù sinh bằng tiếng sáo của Hạng Thuật.
Tuy rằng hai phòng ngủ cách xa nhau, song vẫn có thể nghe rõ tiếng nhạc hòa quyện vào nhau, ngay khi Trần Tinh gảy đàn, Hạng Thuật khựng lại một lúc, dường như bị tiếng đàn bất chợt quấy rầy nỗi lòng.
Song chẳng lâu sau, Hạng Thuật đã điều chỉnh lại, Trần Tinh khẽ gảy cổ cầm, tiếng sáo khương của Hạng Thuật nối tiếp, đến khi tiếng đàn và tiếng sáo cùng lúc chuyển giai điệu, thảng như trong lòng có âm điệu mềm mại hướng về mảnh đất Giang Nam. Trần Tinh nghe hiểu, hóa ra không phải mình đoán già đoán non, mà Hạng Thuật thực sự đang mượn tiếng sáo tỏ nỗi lòng.
Thế nhưng cậu còn chưa kịp hiểu hàm ý sâu xa trong khúc phù sinh thì Hạng Thuật đã cất sáo, quý phủ Tạ An lại chìm vào tĩnh lặng.
Trần Tinh ngồi ngơ ngác, không ngừng nhớ lại tiếng sáo, hệt như một giấc mộng lớn nổi trôi rực rỡ quang ảnh, chỉ hắt ra chút ánh sáng thoắt ẩn thoắt hiện, khiến hình cảnh ấy không còn chân thật nữa. Đợi thật lâu không còn nghe tiếng sáo nữa, Trần Tinh vuốt dây đàn, gảy một cái.
Một tiếng ‘ting’ ngân lên.
Hạng Thuật cất sáo khương toan đứng dậy, chợt nghe tiếng đàn nên lại ngồi xuống, nhìn lên trời đêm trong vắt với ánh trăng mờ ảo.
Trần Tinh nhẹ nhàng gảy đàn mấy tiếng, sau đó cúi đầu nhìn đàn, tấu như nước chảy mây trôi. Là một phần của khúc ‘Nghiễm Lăng Tán’ do người Tấn – Kê Khang chơi, tương truyền Kê Khang bị Tư Mã gia ban chết, trước khi bị hành hình đã tấu Nghiễm Lăng Tán, sau đó ung dung chịu chết. Tiếng nhạc chảy trôi, không hỏi quãng đời còn lại, chỉ gửi gắm tình cảm với đất trời.
Hạng Thuật nghe một lúc, đứng dậy đẩy cửa ra tiến về sương phòng phía đông. Hắn đứng dưới ánh trăng, nhìn Trần Tinh với nét mặt bình thản cùng nụ cười nhạt trên môi qua hành lang, hệt như thế gian ngủ yên, còn mỗi mình cậu tự tiêu khiển, bài Nghiễm Lăng Tán mang theo sức sống thiếu niên, vượt qua ý nghĩa ban đầu của Kê Khang.
Trần Tinh đã học cầm nghệ ở nhà khi còn bé, nhưng hiếm khi chơi đàn, phụ thân từng bảo ‘âm luật có thể bộc bạch nội tâm một người’. Giờ cậu đã hiểu được câu nói ấy.
Sau cùng, Hạng Thuật để phanh cửa viện và cửa phòng, thở dài, quay về phòng nằm xuống, hai ngón tay móc sợi dây đỏ giơ trước mặt nhìn một lúc, cho đến khi tiếng đàn dần ngừng lại, xa xa có tiếng đóng cửa, Hạng Thuật thuận tay ném vòng tay lên bàn, phát ra tiếng vang nhỏ.
_____