*chương nằm trong chùm bonus lì xì 2014~ bạn thiệt là chăm *uốn éo* ~~
Cuộc chiến tranh của Đức Quốc xã càn quét khắp châu Âu, một gia đình Do Thái chạy trốn sang Hoa Kỳ để lại cả căn nhà nhỏ bé và đống đồ đạc cũ nát. Edgar cạy cửa, chúng tôi lẻn vào trong.
Trên bàn trà trong phòng khách là bộ đồ trà không kịp gói ghém mang theo, cái ấm mẻ vòi lớp bụi dày bao phủ. Một bức ảnh gia đình treo trên lò sưởi, trong ảnh là đôi vợ chồng trẻ, một bé gái chừng năm sáu tuổi nằm trong lòng bọn họ. Đứa bé kế thừa gương mặt Do Thái điển hình, mũi cao, tóc đen quăn, đôi môi dày đỏ thắm như trái anh đào.
Cũng gần gần tuổi tôi ngày phải xa cha mẹ.
Lúc bị Edgar đẩy qua phòng ngủ sang phòng khách tôi lén nhìn lại bức ảnh, thầm cảm thán thật là một gia đình hoàn hảo. Người yêu và người được yêu ở bên nhau, họ sẽ mãi mãi hạnh phúc.
Edgar bảo tôi ngồi xuống sô-pha, cậu ta có vẻ rất bình tĩnh, giống như đây là một kết cục đương nhiên. Lát sau, có tiếng gõ cửa, cậu ta đứng chặn cửa trao đổi với người tới mấy câu rồi nghiêng người cho vị khách bước vào: “Đây là Alan.”
Cậu ta quay lại cười như an ủi tôi: “Đừng sợ, Alan, sẽ ổn ngay thôi.”
Gã bác sĩ đội mũ mềm rộng vành màu cọ, che khuất cả mặt. Gã ta đặt hòm thuốc xuống, lúc ngẩng lên thấy tôi hình như gã chợt khựng lại.
Gã bước nhanh tới, cúi xuống nhìn tôi rồi trách Edgar: “Không xong rồi. Anh cứ nhốt thế này cậu ta chết mất.”
Chưa bao giờ tim tôi đập vội như thế.
Không có kệ tủ chỉn chu như trong phòng thí nghiệm, ống thủy tinh và kim tiêm bị bày trên bàn trà, dung dịch cuối cùng điều chế ra trong suốt như nước. Edgar xắn tay áo tôi lên rồi ngồi xuống cạnh tôi, một tay ôm chặt tôi, tay kia bưng kín mắt tôi.
Cậu ta nói: “Bắt đầu được rồi.”
Khi kim tiêm đâm vào tĩnh mạch, cánh tay Edgar ôm tôi đột nhiên siết chặt lại. Tôi cảm thấy có gì đó ướt ướt rơi trên vai mình, tôi tưởng rằng cậu ta khóc, nhưng giọng cậu ta vang lên vẫn thật bình thản.
Cậu ta hôn cổ tôi, thì thầm: “Alan, sẽ qua ngay thôi…”
Khi đó thay vì đau đớn, tôi chỉ thấy hồi hộp. Tôi không biết chất lỏng bị tiêm vào người mình là cái gì hay nó sẽ để lại hậu quả ra sao. Tôi chỉ tin người đang tiêm cho mình, khoảnh khắc nhìn thấy anh ta tôi mừng rỡ đến mức trái tim suýt bắn khỏi ***g ngực.
Arnold cũng an ủi tôi: “Yên tâm, không sao cả, sẽ ổn ngay thôi.”
Edgar vẫn bịt mắt tôi nên tôi không nhìn thấy vẻ mặt anh ta, nhưng tôi có thể tưởng tượng được cặp mắt hẹp dài đó đang híp lại bên dưới vành mũ mềm. Arnold xuất hiện tức là có hy vọng. Có lẽ Andemund của tôi đang ở ngay gần đây, âm thầm kiểm soát mọi chuyện. Tôi sẽ sống sót, sống đến khi chiến tranh chấm dứt, tỉnh táo, hạnh phúc, và sống sót.
Tôi phải tin tưởng Andemund, anh ấy sẽ chấm dứt tất cả nỗi thống khổ này.
Sau này tôi có hỏi Arnold rốt cuộc lúc đó anh ta tiêm cái gì cho tôi. Gã bác sĩ tâm lý đắc ý ngả người trên sô-pha, ghếch chân lên: “Nước muối sinh lý. Bé Alan ơi, trông cậu lúc ấy thảm cực kì, thuốc ngủ tôi cũng đâu có dám xài.”
Rốt cuộc Edgar buông tôi ra, thọc tay vào túi cầm súng, Arnold biết điều giơ hai tay lên, quay lưng chậm rãi đi ra ngoài.
Một giây trước khi bước đến cửa, anh ta đột ngột quay lại, giơ súng lên.
Cùng lúc, Edgar cũng giơ súng.
Nhưng nòng súng của cậu ta chĩa vào tôi.
“Bỏ súng xuống, nếu không tao giết Alan.”
Arnold nói: “Nếu thật sự muốn giết Alan Castor, mày đã chẳng tự dồn mình đến nước bị chính tổ chức của mình truy sát, không đúng sao?”
Edgar im lặng.
Nhưng cậu ta không hạ súng xuống.
“Tao sẽ giết Alan, rồi tự sát.” cậu ta nói, rồi lại nghiêng đầu sang hỏi tôi một cách bướng bỉnh: “Alan, cậu không sợ bị bắn, đúng không?”
Tôi nhìn cậu ta chằm chằm: “Cậu điên rồi.”
Edgar rất hiếm khi phủ nhận những gì tôi nói, lần này cậu ta cũng gật đầu tán thành: “Phải rồi, hầu hết họa sĩ thiên tài đều điên.”
Đoạn cậu ta hung hãn quay sang Arnold: “Tao điên đấy! Nếu Alan còn giá trị với cục tình báo của chúng mày thì bỏ súng xuống, cút ngay!”
Giằng co chừng nửa giờ, rốt cuộc Arnold nhún vai, lùi bước ra khỏi phòng. Trước khi đi anh ta còn phác một cử chỉ tỏ ý trấn an tôi và quay sang nói với Edgar: “Hilsenrath, mày nên nhìn ra cửa sổ đi.”
Edgar men đến cửa, dùng súng thúc tôi lên lầu hai. Lúc thường không ai đụng đến tầng trên, giờ mỗi bước chân chúng tôi đều giũ lên đầy những bụi. Cậu ta mở cửa sổ, âm trầm nhìn ra ngoài rồi túm tay tôi lôi lại cạnh mình, thô bạo như muốn vặn gãy cổ tay tôi.
“Alan, ngay từ đầu cậu đã biết thằng bác sĩ ấy là người của Andemund Garcia đúng không?!”
“Phải.” tôi đáp: “Vì tôi không muốn mình thành đồ ngu ngốc. Andemund đợi tôi trở về, cục tình báo còn cần đến tôi, tôi còn muốn sống sót.”
Edgar xô tôi vào bậu cửa, dí súng vào thái dương tôi.
Tôi thấy ngã tư dưới đường đã dàn đầy lính. Họ bao vây cả tòa nhà, ai nấy đều được trang bị đầy đủ với súng tiểu liên trên tay.
Tôi thấy cả Andemund.
Anh ấy vẫn mặc quân trang thẳng thớm màu xanh sẫm, đứng tách biệt hẳn khỏi vòng vây người, mà vẫn thanh tú ưa nhìn như thế. Peter theo sau ảnh. Arnold đứng cạnh báo cáo tình hình, nhưng dường như anh ấy không hề nghe.
Luồng mắt chúng tôi chạm nhau. Tôi thấy môi anh ấy mấp máy như muốn nói với tôi điều gì, nhưng cuối cùng ảnh chỉ lắc đầu và chăm chú dõi mắt nhìn tôi.
Chà, thật tốt. Khoảnh khắc ấy khoảng trời ảm đạm trong tâm trí tôi chợt bừng sáng, tôi lại thấy Andemund, Arnold và cả các đồng nghiệp của mình. Họ đều đứng tắm mình giữa ánh dương, bình yên và tươi sáng.
Andemund yêu cầu đàm phán.
Nhưng không có đàm phán.
Tôi không dám chắc trận giằng co cân não ấy đã kéo dài bao lâu, chỉ biết Edgar đột ngột thở dài não nề. Cậu ta buông thõng khẩu súng, vòng tay ôm siết thắt lưng tôi, nói: “Alan, tôi thua vì vĩnh viễn không đủ nhẫn tâm với cậu.”
Rất lâu rồi Edgar không ôm tôi dịu dàng như thế.
Một giây lúc ấy, cậu ấy như trở lại là gã thanh niên cổ lỗ kiểu cách ngày nào ở Cambridge.
Cậu ấy nói: “Alan, tôi thích đôi mắt màu lam xám của cậu, chúng khiến tôi nhớ đến bầu trời nước Anh yên ả… Tôi luôn hy vọng rằng khi chiến tranh kết thúc, chúng ta sẽ cùng đi ngao du. Dù cậu không nhớ mình là ai, không nhớ tôi là ai, thậm chí không làm được một phép tính đơn giản tôi cũng muốn đưa cậu đi… đến những nơi chúng ta từng mơ mà chưa có cơ hội đến… chân núi Alps, bình nguyên Nga đầy hướng dương rực rỡ, rồi vườn nho bên bờ sông Rhine… tôi sẽ lại vẽ cậu.”
Tôi không biết phải nói gì.
Nhưng tôi vẫn nói, dù gần như không thể thành lời: “Nếu cậu không phải người Đức, nếu không có chiến tranh… có lẽ kết cục sẽ khác.”
Edgar bưng hai má tôi, hôn tôi. Nụ hôn dài mê mải, không mang chút nào hơi thở thô bạo cưỡng đoạt như trước. Rốt cuộc cậu ấy buông tôi ra, chỉ về phía cầu thang, nói: “Đi đi, Alan.”
Tôi chậm chạp lê bước xuống lầu, đột nhiên cậu ấy lao theo rồi dừng lại trước bậc trên cùng, vẫy tay với tôi qua màn tro bụi mịt mùng. Nụ cười thật ôn hòa, hai mắt lấp lánh, dường như Edgar vẫn luôn là chàng thanh niên điển trai Cambridge ngày nào.
“Alan, nên tránh xa Andemund một chút. Đồng tính luyến ái là phạm pháp.”
Thế này thật giống những lần chúng tôi chia tay nhau trước cổng thư viện ngày xưa, vẫy tay, nói vài câu bông lơn rồi mỗi người một đường, hôm sau gặp lại.
Tôi bước ra khỏi căn nhà đã giam cầm mình bao lâu, một lần nữa trở về dưới ánh mặt trời.
Andemund đứng cách đó không xa. Anh ấy vội vã chạy lại phía tôi.
Tiếng động cơ máy bay dội xuống đầu chúng tôi, loa báo động không kích đột nhiên rú vang khắp quảng trường.
Mặt đất chấn động, luồng khí nóng bỏng từ đâu ập tới.
Có người gào lên: “Máy bay Đức! Máy bay Đức đến! Bom!!!”
Lại có tiếng nổ đinh tai nhức óc rất gần đó, Andemund lao đến xô tôi ngã xoài xuống đất, ảnh gầm lên: “Đừng cử động!”
Bom dội hàng trận liên tục, đàn bà gào khóc, đàn ông chửi bới, rên xiết cầu cứu. Chỉ vài phút trước khi mặt trời lặn khu quảng trường đã thành đống đổ nát tan hoang, kể cả nơi Edgar đang ở.
Trái bom đầu tiên thả xuống chính chỗ đó, lửa nhanh chóng bùng lên, thiêu rụi tòa nhà.