Lưu Lăng ngồi trên ghế nhìn người nọ bị Triệu Đại đưa tới, đang ăn như sói nhai hổ nuốt, trên mặt của hắn nở nụ cười thản nhiên. Người này gọi là Phạm Nguyên Sơn, theo như y nói là một vị đường chủ của Nhị Nguyệt Hương đường thuộc phân giáo phương bắc của Bạch Liên giáo, trước đó quả thật đúng là một nhóm đệ tử Bạch Liên giáo phục kích ám sát Hình Bộ Thượng Thư Tư Mã Luật.
Phạm Nguyên Sơn vẫn không thừa nhận y nhận được lệnh từ một vị đại nhân nào đó trong triều đình, kiên trì nói Bạch Liên giáo bọn họ từ trước tới nay xem trừ ác trợ thiện như nhiệm vụ của mình, nói Tư Mã Luật làm ra vẻ trung hậu nhưng kỳ thực lại gian trá ác độc, chính là đệ nhất gian thần đương triều, cho nên giáo chủ phân đàn phương bắc của Bạch Liên giáo ra lệnh cho Nhị Nguyệt Hương đường bọn họ tìm cơ hội diệt trừ Tư Mã Luật.
Lưu Lăng cũng có hiểu biết nhất định đối với Bạch Liên giáo, tôn giáo thần bí này từng sắm vai phản loạn trong rất nhiều triều đại. Từ sau thời đại Tống triều, gần như mỗi một lần vận động tạo phản quy mô sau lưng đều có bóng dáng Bạch Liên giáo trợ giúp. Trong đó khá nổi tiếng có sự vụ thời Bắc Tống năm Tuyên Hòa, khi Tống Huy Tông còn tại vị, thủ lĩnh Minh giáo, phân đàn phương nam của Bạch Liên giáo, Phương Thập Tam khởi nghĩa.
Phương Thập Tam tục danh là Phương Lạp, chính là thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân lớn nhất thời Bắc Tống.
Hoàng đế Bắc Tống, Huy Tông thích hoa thạch trúc mộc, vì thế đã cho lập Tô Hàng Ứng Phụng Cục ở Giang Nam. Tống Huy Tông phái đại gian thần Chu Miễn đến đông nam cướp đoạt kỳ trân dị bảo hoa thạch trúc mộc, dùng thuyền lớn vận chuyển đến Đông kinh Biện Lương. Mỗi mười chiếc thuyền lớn tạo thành một đội, gọi là đội hoa thạch. Nơi Phương Lạp sinh sống là Thanh Khê, chính là nơi sản sinh trúc mộc, là nơi bị Tô Hàng Ứng Phụng Cục cướp đoạt tàn khốc nhất cho nên Phương Lạp đã cảm nhận sâu sắc sự bóc lột áp bức của Tống triều, vì thế đến năm Tuyên Hòa thứ hai y bèn tụ tập dân chúng dấy binh khởi nghĩa.
Phương Lạp là một ngươi rất có năng lực tổ chức, phát động dân vùng đông nam, nêu cao ngọn cờ chống áp bức bóc lột. Không đầy nửa tháng đã tập hợp được hơn vạn người, liên tiếp công phá sáu châu năm mươi hai huyện, uy chấn một nửa đông nam. Đáng tiếc giang sơn của Phương Lạp không thể kéo dài, chỉ thành lập được hơn một năm đã bị vương triều Bắc Tống tiêu diệt.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận khởi nghĩa Phương Lạp đã làm rung chuyển căn cơ của vương triều Bắc Tống, sau cuộc khởi nghĩa Phương Lạp không lâu, vương triều Bắc Tống cũng bị diệt vong. Tuy rằng Nam Tống vẫn cố kéo dài hơi tàn nhưng bất kể là chính trị quân sự hay thực lực kinh tế đều đã rơi xuống mức thấp thảm hại.
Đây là một ví dụ khá nổi danh cho việc Bạch Liên giáo tạo phản, còn có một ví dụ khác chính là Yến Vương Chu Lệ nổi lên thời Minh triều, trong đó cũng có bóng dáng Bạch Liên giáo. Nghe nói lúc trước khi Yến Vương Chu Lệ bị buộc bất đắc dĩ phải dấy binh tự bảo vệ mình, trong số tám trăm binh sĩ trung thành đi theo ông ta khởi nghĩa có không ít đệ tử phân đà phương bắc của Bạch Liên giáo.
Tới Thanh triều, bóng dáng Bạch Liên giáo lại thường xuyên xuất hiện sau lưng những tổ chức vũ trang có thực lực. Có thể nói, từ sau thời Tống triều Bạch Liên giáo gần như đã thúc đẩy các cuộc khởi nghĩa nông dân xảy ra liên tiếp, mặc dù đa số đều không thành công nhưng qua đó cũng có thể thấy được một phần thực lực và sức ảnh hưởng của giáo phái này.
Cũng không ai biết Bạch Liên giáo khởi đầu từ thời đại nào nhưng không thể phủ nhận giáo phái này tồn tại đã mấy trăm năm mà chưa bao giờ suy sụp. Có một giả thiết đó là Bạch Liên giáo khởi phát từ thời Nam Tống, thuộc một chi nhánh của Phật giáo do Mao Tử Nguyên thành lập vào năm Thiệu Hưng thứ ba thời Tống Cao Tông gọi là Bạch Liên tông, sau đó dần dần biến thành Bạch Liên giáo. Bạch Liên giáo trong tam đại thời kỳ Nguyên Minh Thanh bắt đầu từng bước đi lên vũ đài lịch sử, là tông phái phức tạp nhất cũng thần bí nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Nhưng khi Lưu Lăng tới thời đại này mới được biết, Bạch Liên giáo còn lâu đời hơn cả những gì được ghi chép lại. Căn cứ một số truyền thuyết dân gian từ triều Đường đã có đệ tử Bạch Liên giáo hoạt động.
Thậm chí nếu đi ngược dòng lịch sử, ở triều Tùy có Di Lặc giáo, có lẽ cũng là đời trước của Bạch Liên giáo.
Tuy nhiên lúc đầu tại Đường triều và Tống triều, Bạch Liên giáo chưa bị phía triều đình nhận định là tà giáo. Đến khi Phương Lạp khởi nghĩa mới bị triều đình coi là tà giáo, một khi phát hiện có đệ tử Bạch Liên giáo hoạt động, quan phủ ngay lập tức sẽ phái người truy nã.
Cho nên, Lưu Lăng về thời đại này, thân phận đệ tử Bạch Liên giáo còn chưa phải cái gì đó mà nghe đến đã sợ. Nhưng nếu đặt ở cuối thời Nam Tống, thậm chí vào thời Minh Thanh, nếu có người dám nói mình là người của Bạch Liên giáo chỉ sợ người này không phải chán sống thì cũng tâm thần rồi.
Nếu Phạm Nguyên Sơn kiên trì không chịu thừa nhận mình là thuộc hạ của một vị đại nhân nào đó trong triều đình, Lưu Lăng cũng không vội thúc ép y, dù sao người này trung thành bảo vệ chủ, cũng coi như là một thuộc hạ đủ tư cách, đối với người như vậy Lưu Lăng rất trân trọng, nếu không phải đối thủ, mà lại là kẻ thù của đối thủ, Lưu Lăng cảm thấy có thể coi y là bằng hữu.
Một con gà luộc, hai cân thịt bò, một bình rượu lâu năm, Phạm Nguyên Sơn xử lý sạch sẽ trong vòng mười lăm phút, bởi vậy có thể thấy được thủ đoạn phi thường theo như lời Triệu Đại nói bao hàm cả việc không cho ăn.
Lưu Lăng không nóng vội, vừa đọc sách vừa lẳng lặng chờ đợi Phạm Nguyên Sơn ăn xong. Hai người đều không nói chuyện, bỗng nhiên từ bên ngoài, Mẫn Tuệ bẩm báo nói rằng Chu Diên Công cầu kiến.
Từ ngày đó sau khi Chu Diên Công lâm triều làm kinh diễm toàn bộ sảnh đường, Hiếu Đế đối với người này cực kỳ yêu thích, mặc dù không cho chức quan thực chất nào nhưng không ngờ lại đặc cách cho y gia nhập Quân Cơ Xứ!
Điều này có ý nghĩa như thế nào? Đây là một vinh dự cực lớn!
Mặc dù không có chức quan nhưng những ai trong Quân Cơ Xứ đều được mọi người bên ngoài đối đãi như Tể tướng. Vị trí kia có thể ngày đêm sớm tối ở bên cạnh Hoàng đế, bất cứ lúc nào cũng có thể được Hoàng đế gọi đến.
Nói cách khác, Chu Diên Công mặc dù không có quan tước nhưng có thể coi là Tể tướng áo vải!
Ngay cả Lưu Lăng cũng không nghĩ tới chuyện Hiếu Đế sẽ cho Chu Diên Công ân huệ như vậy. Hãy nhìn năm người trong Quân Cơ Xứ đi, chính hắn thì không cần phải nói, Tả thừa tướng Lư Sâm, Trung Thư Lệnh Âu Dương Nhân Hợp, Trấn Quốc tướng quân Tô Hổ Bào, Đại học sĩ Tô Tú, bốn người này không một ai không là nhân vật được mọi ngươi kính ngưỡng?
Mà Chu Diên Công cũng là một ngươi có ơn tất báo, nếu đã nhận ân điển của Hoàng Đế bệ hạ vậy thì nhất định sẽ xuất ra trăm phần trăm tinh lực tận tâm làm việc. Tuy rằng Lưu Lăng đã nói với y làm việc chỉ nên ra tám phần sức lực, thành tích vừa đủ, còn lưu lại cho mình hai phần đường sống, không được để đến mức lực tâm lao lực quá độ. Nhưng Chu Diên Công thuộc loại trung thần điển hình giống như Tổng đốc Hà Nam Điền Văn Kính dưới trướng Ung Chính triều Thanh, vì được Hoàng Đế bệ hạ ân điển mà dốc hết tâm huyết.
Từ khi vào Quân Cơ Xứ, mấy ngày nay, Chu Diên Công đều ăn ở trong đó. Y làm việc cẩn thận, nghiêm túc, ngay cả người luôn cực kỳ hà khắc là Đại học sĩ Tô Tú cũng phải tán thưởng hết lời. Tô Tú từng đánh giá Chu Diên Công như sau: - Nếu quan lại Đại Hán ta có năm người như Diên Công thì đã đủ để an ổn triều chính. Nếu có mười người như Diên Công thì trở thành cường quốc là điều dễ dàng!
Đây là lần đầu tiên Chu Diên Công trở về phủ Thân Vương sau khi vào Quân Cơ Xứ.
Lưu Lăng nói với Mẫn Tuệ: - Cho y vào đi, chuẩn bị một ít thức ăn ngon. Vừa mới lấp đầy một cái bao tử không đáy, giờ lại có một cái nữa mò đến.
Mẫn Tuệ ồ một tiếng, dùng dằng lui ra ngoài. Vừa đi vừa nhỏ giọng lẩm bẩm: - Vương gia cũng ba ngày mới ăn gà luộc, chân giò hun khói một lần, nhưng chiêu đãi những người vô công rỗi nghề này lại hào phóng như thế...
Lưu Lăng cười xấu hổ, mà Phạm Nguyên Sơn liền đứng bật dậy khỏi ghế!
- Vương gia?
Hắn nhìn thẳng vào mắt Lưu Lăng, gằn từng tiếng hỏi: - Ngươi thật sự là Vương gia?
Lưu Lăng thấy y phản ứng mạnh như vậy cũng không để tâm đến sự thất lễ của y, chỉ thản nhiên gật đầu cười nói: - Thân phận Vương gia không phải là cái có thể tùy tiện giả mạo đấy, sơ sẩy chút bị chém đầu như chơi.
Phạm Nguyên Sơn lui về phía sau, vẻ mặt lập tức chuyển thành đề phòng. Y chùi cái miệng đầy mỡ một cái, nhìn Lưu Lăng hỏi: - Chẳng lẽ... Ngươi là Trung Thân Vương Lưu Lăng?
Lưu Lăng nói: - Trong thành Thái Nguyên này có tới mấy vị Vương gia, ngươi làm sao lại cảm thấy ta là Trung Thân Vương?
Hắn nói đến đây kỳ thật là đã ngầm thừa nhận sự dự đoán của Phạm Nguyên Sơn.
Phạm Nguyên Sơn hừ một tiếng nói: - Nếu đã rơi vào trong tay ngươi, muốn đánh muốn giết tùy ngươi, đối xử với ta như thế này, ngươi muốn vũ nhục ta sao?
Lưu Lăng cười nói: - Bổn vương nếu muốn giết ngươi thì cần gì phải làm như vậy lại còn lãng phí một bình rượu ngon, một con gà béo? Có lẽ đại nhân nhà các ngươi rất thất vọng với bản Vương, cho rằng bổn Vương cá mè một lứa với những gian thần trong triều. Có phải hắn ta cảm thấy bổn Vương không phải một người có thể cộng tác, càng không tin bổn Vương sẽ ra tay với lũ sâu mọt trong triều cho nên ngay cả các ngươi cũng cho rằng ta là một tiểu nhân gian trá, đúng không?
Phạm Nguyên Sơn sửng sốt, lẩm bẩm nói: - Ngươi... Làm thế nào lại biết được tất cả như thế?
Y ngẩng đầu nhìn Lưu Lăng hỏi: - Ngươi thật sự biết đại nhân nhà ta sẽ xuống tay với Tư Mã Luật?
Nói xong câu đó, dường như y cũng ý thức được mình đã nói lộ ra cái gì, lập tức ngậm miệng.
Lưu Lăng cười ha hả, nói: - Phạm Nguyên Sơn, ngươi là một con người rắn rỏi, cốt khí cũng rất ương ngạnh. Tuy nhiên người như vậy bổn Vương rất thích!
Đang nói, Chu Diên Công vén rèm đi đến. Vừa vào cửa y liền kéo áo quỳ xuống đất, cung kính dập đầu ba cái: - Chu Diên Công bái kiến Vương gia!
Lưu Lăng đi tới đỡ y dậy nói: - Diên Công à, sao mới vào Quân Cơ Xứ có vài ngày đã bị lây nhiễm cái loại lễ nghĩa lộn xộn này rồi?
Chu Diên Công cảm khái nói: - Ân tái tạo của Vương gia Diên Công từng giây từng phút khắc cốt ghi tâm.
Lưu Lăng sút một phát vào mông Chu Diên Công nói:
- Miệng đầy khí chua lét, đứng lên mà nói!
Chu Diên Công bị đá một cước, mắng một câu, lại trở nên thoải mái như được uống mật ong, mặt mày hớn hở đứng lên, tỏ vẻ nịnh nọt cười nói: - Vương gia, mấy ngày nay không gặp ngài thật sự là nhớ da diết. Vương gia có mạnh khỏe không? Mỗi một ngày không được trông thấy hình bóng Vương gia, trong lòng Diên Công càng bức bối không chịu nổi.
Chu Diên Công là một tên cận thị, Lưu Lăng rõ ràng đã trở về chỗ ngồi, y lại vẫn hướng về vị trí ban nãy của Lưu Lăng mà nịnh bợ khiến cho Lưu Lăng bật cười ha hả. Lưu Lăng cười mắng: - Ngươi, cái tên gia hỏa này! Ta đã bảo Mẫn Tuệ chuẩn bị thức ăn cho ngươi rồi, đừng có giả vờ giả vịt nữa!
Chu Diên Công cười ha hả nói: - Vẫn là Vương gia hiểu Diên Công, sức ăn của mấy vị đại nhân trong Quân Cơ Xứ còn không bằng một con mèo nữa, hơn nữa đồ ăn nhìn thì đẹp mắt nhưng ăn vào lại không có vị gì đặc biệt, không bằng lúc còn ở trong Vương phủ, mồm to ăn miếng thịt lớn, thoải mái tự tại. Mấy ngày nay thực sự làm ta đói bụng lắm rồi, đành phải lủi trở về Vương phủ cầu Vương gia thưởng cho một miếng thịt lót dạ.
Y nói câu này mà cũng không đỏ mặt.
Bỗng nhiên, Chu Diên Công giật giật cái mũi nói: - Vương gia, ngài lại nói dối ta, phòng sách này rõ ràng có rượu có thịt, không phải là ngài đoán trước được ta trở về chứ?
Lúc này, một giọng nói vang lên cách Chu Diên Công không xa vang lên, dọa cho y nhảy dựng lên.
- Những thứ kia đều bị ta ăn hết rồi.
Chu Diên Công cận thị nên không phát hiện ra trong thư phòng của Lưu Lăng còn có một người khác nữa. Mà Phạm Nguyên Sơn vì phòng bị Lưu Lăng nên lui về phía sau vài bước, tựa vào một cái giá treo áo mà đứng, cho nên Chu Diên Công không nhìn thấy y.
Phạm Nguyên Sơn nhìn Chu Diên Công, thật thà chất phác nói: - Nếu ngươi muốn ăn thì vẫn còn nửa cái đùi gà, nếu ngươi không chê thì có thể ăn đi.
Lưu Lăng sặc một tiếng, nhịn không được phải bật cười. Trong lòng tự nhủ hai kẻ đáng yêu nhất thiên hạ hiện nay, sao lại cùng xuất hiện trong thư phòng của Lưu Lăng ta một lúc thế này? Một chân chất, nhưng lại có vài phần hẹp hòi. Một giảo hoạt, kỳ thật trong lòng lại chân chất vô cùng. Hai người tụ lại cùng một chỗ có lẽ có thể cùng tỏa sáng.
Ánh mắt Lưu Lăng sáng ngời, trong lòng tự nhủ nếu để cho tiểu giảo hoạt cận thị Chu Diên Công bám càng buôn chuyện với người nhìn thì có vẻ khù khờ nhưng thật ra lại cực kỳ khù khờ như Phạm Nguyên Sơn, biết đâu sẽ moi được một vài tin tức hữu dụng!