Binh mã xuất phát từ Hoa Âm, hôm đó đã vượt qua Đông Quang, tối đến nghỉ tại Mẫn Hương. Ngày hôm sau thì vượt Hoàng Hà, hành quân hai ngày thìđã tiến vào biên giới Hà Nam, hội hợp với huynh đệ Sử Cách là Sử Nhượctại Lạc Dương. Binh mã tăng lên sáu nghìn, tiếp tục đi thẳng về hướngnam. Sau một ngày, tiến vào Thái Châu, lúc đó thì Sử Thiên Trạch cũng đã đến nơi, hai anh em tham kiến phụ thân. Đến buổi trưa thì Sử Cách quayvề doanh trại, triệu tập quân lính.
Mọi người đều đến trước quântrường, nhưng chỉ thấy Sử Cách đứng đó, không một lời nói, vẻ mặt âmtrầm. Mọi người cảm thấy rằng sự việc không tốt lắm, nên đều im lặng.Qua gần nửa ngày mới nghe Sử Cách nói:
- Bổn nguyên soái đã gặpgia phụ, và gia phụ cho rằng, đội quân mới này quá yếu đuối, không thích hợp cho những trận đánh ác liệt. Ra lệnh cho bổn soái thủ ở thành nàyvà luyện tập nhiều hơn. Lương thực của hậu phương sắp đến, lúc đó phốihợp vận chuyển là được.
Mọi người vừa vui vừa giận, những kẻ vuithì giống như Lương Tiêu, thấy không cần phải chiến đấu, thật nhàn hạrảnh rỗi, nhưng nhiều kẻ giận ví dụ như Thổ Thổ Cáp và Nang Cổ Ngạt. Mọi người quay về doanh trướng, Thổ Thổ Cáp chưa đi vào, đã bỏ mũ giáp sắtxuống đất, nói một cách giận dữ:
- Đạo binh của chúng ta dự địnhlà tiến thẳng ra Tương Dương, làm một cuộc đại chiến với người Tống, tại sao bây giờ lại là vận chuyển lương thảo?
Quay lại nhìn thì thấy Lương Tiêu đương ngồi trên đất, lấy một cây đũa ra vẻ vời trên đất cát, đột nhiên quát:
- Lương Tiêu, tại sao ngươi không nói gì đi?
Lương Tiêu cười và nói:
- Ta đâu phải là Sử Thiên Trạch, nói thì có tác dụng gì?
Nang Cổ Ngạt nhìn thấy những ký hiệu trên cát thì nói:
- Lương Tiêu, ngươi đang làm toán hả?
Lương Tiêu cười nói:
- Ngươi cũng biết toán à…
Nang Cổ Ngạt lại nói:
- Biết một chút, nhưng ngươi làm giỏi hơn, ta nhìn vào cũng không hiểu lắm.
Lương Tiêu nói:
- Ngồi đây không có chuyện gì làm nên ta tính toán số lượng nhập xuất của lương thảo, tiện thì tính luôn nếu khai chiến thì bình quân một tênlính cần bao nhiêu lương thực, quân bộ thì cần bao nhiêu lương thực vàquân mã thì cần bao nhiêu lương thực. Nếu khai chiến ba ngày thì lươngthực chia thế nào, khai chiến bảy ngày thì sao?
Thổ Thổ Cáp nói một cách kinh ngạc:
- Điều ấy cũng tính ra được hả?
Lương Tiêu cười:
- Được chứ, ngươi xem cái này nhé, một người thì cần 5 xô gạo, một ngườiquân sỹ đem lương khô của 5 ngày, mỗi ngày một người ăn 2 xô, 2 ngườithì có thể ăn 18 ngày nhưng tính cả đi lẫn về thì chỉ có thể ăn 9 ngày,nếu 2 người dân và một người lính, lương thực ăn mang theo nhiều hơn,nhưng miệng ăn cũng nhiều hơn, tính luôn đi lẫn về chỉ có thể ăn 13ngày, nếu 3 người dân và một tên lính, thì chỉ có thể ăn 16 ngày.
Thổ Thổ Cáp gãi đầu nói:
- Vẫn chưa đủ để cho ta ăn!
Lương Tiêu nói:
- Lần này, quân đội tập hợp được 200.000 người, cộng thêm quân tiềntuyến, sẽ là 300.000 người, thời gian chinh chiến cũng đâu chỉ là mộthai tháng, một số người ăn nhiều, như Thổ Thổ Cáp, ngày ăn nhiều hơn một thùng gạo, một người mà ăn được 2 con heo, không, ăn 2 con bò mới đúng. Nếu ngươi ăn như vậy cỡ 3 hay 5 tháng thì thậm chí hai mươi người dâncũng không thể nuôi ngươi được đâu.
Mọi người đều cười lớn.
Lương Tiêu cũng cười và nói:
- Nếu như sử dụng trâu bò, có thể giảm bớt một chút, lạc đà có thể chởmột bao, ngựa thì một bao rưỡi, lừa thì một bao, nhưng súc sinh cũng cần đồ ăn thức uống, súc sinh nhiều hơn, còn có thể bệnh và chết đi, lươngthực ở đâu thì đành nát mục ở đó. Hà huống sử dụng trâu ngựa, còn cầnđường thông lối thoáng, nếu gặp hiểm trở thì còn phải mở đường đắp cầu.Hơn nữa, người Mông ăn rất nhiều lương thực, lượng tiêu hao trâu bò sẽcực đại. Từ tất cả các điều đó, qua sự tính toán của ta, dùng xe ngựavận lương, 30 vạn đại quân và 100 người thường phải gấp rút ngày đêm đi
Lí Đình than thở:
- Nghe Lương huynh nói vậy, chúng ta chỉ biết đến chiến tranh, nhưng lạikhông biết nuôi một binh sĩ như thế nào, không biết rằng khó khăn nhưvậy.
Thổ Thổ Cáp cũng nói:
- Hèn gì hoàng đế Hốt Tất Liệt không chịu chiêu quân, thì ra là vì cái lí do này.
Lương Tiêu nói:
- Nếu như bàn về tiền và lương thực, thì công sẽ lớn hơn thủ, đi chinhphục xa thì càng bất lợi nhưng kẻ phòng thủ cũng có chỗ bất lợi, thật ra đeo lương thực sau lưng khi ra trận là một biện pháp ngu dốt. Cách tốtnhất là 'Nhân Lương Vu Địch’, nghĩa là dùng lương thực của đối phương để nuôi bản thân, khi đánh chiếm một cái thành thì đương nhiên sẽ bóp nặnđược lương thực cấp dưỡng, bên thủ thì sẽ yếu hơn và phe công thì sẽmạnh hơn vì có nhiều lương thực.
Thổ Thổ Cáp nói:
- Đúng, một đạo lí đơn giản như vậy mà tại sao ta không nghĩ ra?
Lí Đình nói một cách trầm ngâm:
- Nếu như vậy, nếu là quân phòng thủ thì tốt nhất là nên giấu hết lương thực.
Lương Tiêu không trả lời gã, chỉ nhìn Thổ Thổ Cáp cười nói:
- Thổ Thổ Cáp, còn ngươi bảo sao ?
Thổ Thổ Cáp nói:
- Ta nghĩ là cắt đứt đường dây lương thực của đối phương, ép chúng rút quân.
Lương Tiêu nói:
- So với tử thủ thì xuất kích hay hơn. Dùng những đội binh tinh nhuệ,đánh du kích, cắt đứt lương thực của địch, vậy mới là cách tốt nhất .
Thổ Thổ Cáp cười lớn và nói:
- Ý ngươi nói là vận chuyển lương thảo rất quan trọng, không thể xem thường đúng không?
Lương Tiêu mỉm cười và nói:
- Sự việc thật ra cũng không phải như vậy, ta không biết người Tống cógan không, nhưng cho kì binh đi sau, đánh du kích để quấy nhiễu đốiphương, phá hỏng lương thực của chúng, vậy mới là diệu kế, binh pháp nói thủ thành thì phòng thủ tốt hơn, nhưng tấn công thì đòi hỏi cần một đội quân tinh nhuệ, ví dụ là ta, thì lấy yếu điểm của ta xem như là điểmmạnh của địch, lấy cái mạnh của ta đánh vào cái yếu của địch. Điểm yếuhiện nay là lương thực. Hồi nãy ta đã tính qua một lần, nếu mỗi ngày họhủy một đội vận chuyển lương thực của chúng ta thì trong vòng 2 năm binh lính của Nguyên triều sẽ chết hết, không cần đánh mà vẫn thắng.
Thổ Thổ Cáp nghe đến đây, chịu không nổi bèn nói:
- Lương Tiêu, thật ra ngươi bên phe nào đó? Tại sao cứ nghĩ cho người Tống không vậy?
Lương Tiêu nói:
- Sao mà gấp rút thế? Chẳng qua là ta chán nản không có gì làm nên tính toán chơi thôi mà.
Thổ Thổ Cáp nắm tay của Lương Tiêu nói một cách kích động:
- Lương Tiêu, nếu ngươi làm tướng quân thì đối thủ chắc chắn sẽ hối hận.
Lương Tiêu lắc đầu nói:
- Chiêu này không có tác dụng gì với Thành Cát Tư Hãn đâu.
Thổ Thổ Cáp nói:
- Không sai, thời Thành Cát Tư hãn, số lượng trâu bò song song với số lượng binh lính nhiều vô kể.
Lương Tiêu nói:
- Hồi trước nghe mẹ ta nói, đàn ông Mông Cổ vừa là binh sĩ vừa là nôngdân, chiến đấu và nông nghiệp hai cái nghề này không có liên quan gì,nhưng họ lại dùng phương pháp này thống nhất phương bắc, càn quét tứphương. Nhưng vì phương nam là nơi nhiều nước, không thể thả súc sinhđược nếu muốn đem theo lương thực thì phải dùng tàu thuyền
Trong lều yên lặng một hồi, Thổ Thổ Cáp than thở:
- Lương Tiêu, ngươi thật thông minh, nếu là ta thì không cách nào nghĩ ra cái đạo lí này.
Lương Tiêu lắc đầu, nói:
- Ta nghe một lão già họ Minh nói, đại tướng quân không phải là một người mà đánh bại được, càng không phải dùng bạo lực, mà phải dùng đầu óc đểsuy nghĩ, nếu các ngươi muốn thành đại tướng quân thì phải biết nhiềubinh pháp, binh pháp của Thành Cát Tư hãn rất lợi hại, nhưng binh phápcủa người Hán cũng không đơn giản, ta nghe ông già đó nói một chút, hiện giờ rãnh rỗi, để ta nói các người biết.
Mọi người nghe vậy đềuvui mừng, ai cũng ngồi ngay ngắn nghe Lương Tiêu nói. A Tuyết không cảmthấy có hứng thú nghe, bắt lửa bếp, xát muối lên 2 miếng thịt bò, lấycay nĩa sắt đâm xuyên qua và nướng, để khi mọi người nghe xong rồi chiacho họ ăn.
Mọi người ở lại Thái Châu, ngày thì luyện võ tập bắncung, tối thì nghe Lương Tiêu giảng võ, trên đường đào thoát hôm đó,Minh Quy đã từng nói binh pháp với Lương Tiêu , giờ hắn kể lại cho sáungười nghe, nhưng hắn rất lanh lẹ, từ trước đến nay cũng không dựa vàosách vở, nên nói cả cái mà mình vận dụng được, trong đó người tiếp thunhiều nhất là Thổ Thổ Cáp và Lí Đình, Thổ Thổ Cáp yêu thích dã chiến, Lí Đình lại thích tính toán và bày binh bố trận.
Sử Cách không được ở chiến trường, tâm tình không tốt lắm. Ban ngày thì ăn chơi với các vũ nữ và thê thiếp, Thổ Thổ Cáp và Nang Cổ cũng khinh thường ông ta, quahai mươi mấy ngày, lương thảo của đại quân đã chuyển đến, có khoản 30ngàn thạch. Sử Cách chia người và ngựa chia làm 30 nhóm , mỗi nhóm mộtngười, lần lượt chuyển đi, mình thì đi sau, nhóm của Lương Tiêu thì bịsắp đặt đi trước, có ý đánh tiên phong, làm cho Thổ Thổ Cáp vui mừng,không ngờ ban đêm có một tin tức, nói rằng Bách phu trưởng của nhóm họlà Sử Phú Thông. Mọi người nghe được đều cảm thấy buồn bã, luôn miệngchửi cha mắng mẹ.
Quả nhiên đến ngày thứ hai, Sử Phú Thông đếnnhậm chức, vừa mới lên chức thì bắt đầu tỏ thái độ không vừa ý với người của Lương Tiêu, gọi qua kêu lại, hỡ một chút là chửi. Nhưng Lương Tiêukhác với mọi khi, hắn vẫn cười nói dù bị chửi rủa, dìu Sử Phú Thông lênxuống ngựa, điều gì cũng làm vừa lòng lão ta hết. Nhưng tình trạng tốtnhư vậy không kéo dài bao lâu, khi vừa mới qua giờ ăn trưa, khuôn mặt Sử Phú Thông đột nhiên biến sắc, theo sau Lương Tiêu như một con chó bámđuôi vậy, trông rất ngoan ngoãn , như Lương Tiêu trở thành Bách phutrưởng, ông ta là Thập phu trưởng vậy.
Mọi người đều thấy ông tatiền cứ hậu cung, tất cả đều cảm thấy ngạc nhiên, không biết Lương Tiêuđã dùng cách gì mà làm cho ông ta nghe lời, nhưng Sử Phú Thông cứ bámtheo Lương Tiêu, ngay cả lúc ngủ cũng vậy, nên mọi người đều không có cơ hội hỏi thăm về sự việc, đến ngày thứ 2, mọi người rất khó khăn để màtìm được một dịp tốt để hỏi Lương Tiêu, Lương Tiêu cười và trả lời :
- Thật ra rất đơn giản, ông ta kêu ta dìu ông ấy lên ngựa thì ta làmtheo, nhưng ta nhanh tay làm thủ đoạn ở bao tử của ông ta, làm cho ôngta buồn chán không thèm ăn uống, sau đó ta nói ông ta nghe rằng ta biết y thuật và xem ra mạng của ông không thọ bao lâu và nói ông ta nghe vềbệnh tình của ông ấy. Ông ta mới nghe xong thì sợ mất hồn mất vía, talại nói : chỉ cần ông nghe lời ta, thì ta sẽ tìm cách cứu ông, nếu không thì tự mà bảo trọng nhé.
Ai nghe thấy cũng cười không ngưng miệng, Thổ Thổ Cáp nói:
- Cách này tuy nhiên tốt, nhưng sợ lâu rồi thì Sử Phú Thông sẽ phát hiện là mình đã bị lừa gạt.
Lương Tiêu nói :
- Ta tự có cách giải quyết, hôm qua ta cho đại 2 viên thuốc cho lão tauống và giả bộ bắt mạch cho lão, thừa lúc bắt mạch ta đã hóa giải cấmchế bao tử, và tại ruột của lão ta làm một chút thủ đoạn nữa, nên hômnay lão ta không chán ăn nữa, mà lại bị tiêu chảy, mỗi ngày ta đều thayđổi một chút, hôm nay là đốc mạch, mốt là nhâm mạch và ngày mốt nữa lạilà kì kinh bát mạch, hì hì, không cần gấp, từ từ từng sợi mạch màbắt…..Ôi, giờ lão đã đi vệ sinh, sau khi lão đi ra thì không được cườirồi làm lộ kế hoạch của ta .
Lời vừa mới đứt thì thấy Sử PhúThông mặt xanh xao, tay nắm thắt lưng đi ra từ sườn núi, mọi người đềuquay lưng lại nén cười một cách khó khăn.
Sử Phú Thông nắm lấyLương Tiêu một cách đau khổ, kể lể bệnh tình, mới nói 2 câu mà mặt mũiđỏ lừ, lại ôm bụng chạy xuống sườn núi, mọi người thấy vậy đều cười.Lương Tiêu cũng quay lại và tìm một chỗ vắng ngồi cười cho thỏa.
Vừa đi vừa nghỉ, đã qua 7 ngày, Sử Phú Thông không có bệnh nặng, nhưng bệnh nhỏ nhặt thì thường xuyên, chút thì đau lưng, lúc thì mỏi lưng, chổ này lành thì bệnh chỗ kia giở bệnh. Lúc đầu còn nghi là Lương Tiêu giở trò, liên tiếp trên đường đã tìm vài người đại phu, ai cũng thấy huyết mạchcó vấn đề, nhưng lại không biết bệnh xuất phát từ đâu, châm cứu rồi uống thuốc, nhưng vẫn không khỏi, vậy mà lần nào Lương Tiêu khám bệnh choông ta thì đều khỏe hơn, nhưng không bao lâu, cái bệnh này tan biến thìbệnh kia lại đến. Sử Phú Thông lưu luyến phú quý và rất sợ chết, cảmthấy toàn thân mệt mỏi, thường tự nghĩ không lẽ mình đã mắc phải bệnhchứng nan y, sinh mệnh nằm trong tay Lương Tiêu, nên ông ta nghe lờiLương Tiêu hết mực, không dám nghĩ đến chuyện trái ý.
Ngày hômđó, đại quân áp lương tiến vào vùng Phục Ngưu sơn, cách Tương Phiền (*)không xa, đột nhiên nhìn thấy bên phải xuất hiện 200 người, Lương Tiêucười nói:
- Sử đại nhân, phía trước hình như có người! Cần đi thăm dò một chút không?
Sử Phú Thông nằm trên một đống lương khô, nghe câu nói này trong lòngnghĩ: “Sử và tử (chết) là đồng âm, nó kêu ta là Tử đại nhân, chắc là cóđiềm báo không hay rồi.” Nghĩ đến đây thì mặt ông ta lộ vẻ buồn rồi nóilớn:
- Người anh em tốt, ngươi cứ làm như vậy đi! Ta e rằng không thể chịu đựng được đến Tương Dương rồi, người ta thường nói “nhân chitương tử, kì ngôn dã thiện, điểu chi tương tử, kì minh dã ai” (người tasắp chết, nói lời tốt lành, con chim sắp chết, lời hót thiện lương).Ngươi chuyển lời cho Vạn Hộ Gia nhé, nói là Phú Thông đi trước đây,nhưng đến phút cuối cùng cũng cung cúc tận tụy cho Sử gia. Sau khi tachết, hy vọng ông ấy sẽ chăm sóc 4 người vợ của ta. Người anh em tốt ạ,ngoài bốn người đó thì còn sáu người bên ngoài nữa, lần này ta ra đi,nhà cửa chắc chắn sẽ bị sáu con dâm phụ kia thừa cơ trục lợi, ngươi nóivới Vạn Hộ Gia là phải quay lại… quay lại để trông nom hai đứa con trơtrọi của ta.
Ông ta bật khóc. Mọi người và sĩ binh thấy ông ta chết mà giọng nói rất khỏe, nên cũng hơi ngạc nhiên.
Lúc này, phía đằng trước có một người cưỡi ngựa chạy đến và nói:
- A Lí Hải Nha đại nhân kêu tôi đến hỏi thăm, các ngươi có phải đang vận chuyển lương thực không?
Sử Phú Thông ngạc nhiên và buông Lương Tiêu ra:
- Ồ, A Lí Hải Nha đại nhân? Người anh em tốt, dìu ta xuống, dìu ta xuống mau.
Tên lính nhìn thấy bộ dạng kì lạ của ông ta, nên hỏi:
- Ông là người cầm đầu ở đây đúng không?
Sử Phú Thông gấp rút :
- Đúng, tôi là Bách phu trưởng.
Người kia nửa tin nửa ngờ và nói:
- Vậy được rồi, để tôi nói với Hải Nha đại nhân.
Xong rồi hắn leo lên ngựa và đi, sau đó có một đám người ngựa đến gần, người đi đầu mặc một bộ áo màu tím và đội một chiếc nón da màu tím.
Người đó được sự chỉ điểm của thủ hạ, liếc sang Sử Phú Thông nói:
- Ngươi là Bách Phu trưởng hả?
Sử Phú Thông nói một cách mệt mỏi:
- Tiểu tướng Sử Phú Thông tham kiến Hữu thừa đại nhân, trên đường mắc bệnh, không thể nào hành lễ, hi vọng tướng quân bỏ qua.
A lí Hải nha nói:
- Nếu mắc bệnh thì phải giao trách nhiệm lại cho người khác, cố giữ chứcvụ là thế nào? Mạng của ngươi là việc nhỏ, nhưng việc quân lương là việc lớn đấy.
Sử Phú Thông không dám nói năng gì.
A lí Hải nha tỏ vẻ khinh bỉ, nhìn vào đám lính đó, trông thấy Lương Tiêu và Thổ ThổCáp, cảm thấy tướng mạo 2 người mạnh mẽ, mặt mũi lanh lẹ, trong lòng vui vẻ, liền dùng cây roi ngựa chỉ vào 2 người và nói :
- Hai người qua đây cho ta.
Lương Tiêu và Thổ Thổ Cáp nhìn nhau một hồi rồi đi lên phía trước. A lí Hải nha nói:
- Các ngươi đảm nhiệm chức vụ gì ?
Thổ Thổ Cáp nói:
- Tôi là lính thường, còn vị này là thập phu trưởng của tôi.
A lí Hải nha gật đầu nói với Lương Tiêu:
- Ta ra lệnh cho ngươi tạm thời đảm nhiệm Bách phu trưởng.
Và nói với Thổ Thổ Cáp
- Còn ngươi làm Thập phu trưởng.
Hai người đành tuân mệnh. A lí Hải nha lại hỏi Sử Phú Thông:
- Tại sao Sử Cách lại chia binh ra vận lương?
Sử Phú Thông đứng đó với bộ mặt ngơ ngáo. Nguyên lai Sử Cách tin vào binhsách nói rằng: Ngu binh dịch ngự (lính ngu dễ chế ngự), nên không baogiờ đem cách dụng binh kể cho thủ hạ nghe, vì vậy Sử Phú Thông trước giờ không hề hay biết, trong lúc hoảng sợ, hắn hướng ánh nhìn vào LươngTiêu tỏ ý cầu cứu. Lương Tiêu cười cười, bình tĩnh nói:
- Vì mùanắng nóng sắp đến. Súc sinh của đội lại nhiều, nếu có bệnh dịch thì sẽlây lan sang súc sinh khác, nếu chia ra 20 đội, và một trong số 20 độibị bệnh thì cũng không gây ảnh hưởng đến đội khác.
Sử Phú Thông nghe vậy liền nói ngay:
- Đúng rồi, đúng là Vạn Hộ Gia có nói thế.
A lí Hải nha gật đầu:
- Quả nhiên là con cháu của minh tướng, suy nghĩ chu đáo, nhưng mọi việc đều có mặt tốt và xấu.
Lương Tiêu cười nói:
- Không lẽ đại nhân sợ binh lính chia cắt rồi sẽ yếu hơn, dễ bị người tatập kích à? Nhưng nghĩ kỹ chẳng gì cũng sắp đến Tương Dương, có chuyệngì lớn thì sẽ có người tiếp cứu, cho dù là người Tống cũng không dám gan dạ đến mức cướp lương trước một vạn đại quân.
A lí Hải nha nghĩ: “Ta hồi nãy hỏi chuyện nhưng Bách Phu trưởng không thể trả lời, vậy màThập Phu trưởng lại có thể trả lời. Ta mới nói tốt và xấu, nhưng ThậpPhu trưởng này đã nói thẳng về vấn đề xấu.” – Hắn nhìn Lương Tiêu lạinghĩ tiếp: “Y chỉ là một tên lính bình thường, sao lại có kiến thức sâuxa như vậy.”
Nhưng hắn không khen ngợi ra tiếng, và chỉ nói một cách thản nhiên:
- Ngươi nói quả nhiên không sai, nhưng chuyện gì cũng cần đề phòng, nếu thật sự là có người cướp lương thì phải làm sao?
Đôi mắt hắn gắn chặt vào Lương Tiêu.
Lương Tiêu cười và nói:
- Tôi chỉ là một tên lính, thì biết làm sao? Nhưng có gì thì chia ranhiều nhóm, 200 người một nhóm, đội ngũ không cách nhau xa lắm, trướcsau hỗ trợ lẫn nhau, mỗi nhóm cử một người lính truyền tin, nếu gặp nguy hiểm thì thông báo cho các nhóm khác. Và lúc đó sẽ xếp thành một hàngđể đối phó, nếu phía trước bị đánh thì phía sau hỗ trợ, phía sau bị đánh thì phía trước hỗ trợ, nếu đánh chính giữa thì coi như bọn đó xui xẻorồi. Vì nếu chúng tập kích ở giữa thì mình trên dưới cùng đánh kẹp vào,cho bọn chúng tan tác.
A Lí Hải Nha nhìn Lương Tiêu một hồi và nói:
- Khi đến Tương Dương, ngươi hãy đến doanh trại gặp ta.
Sử Phú Thông vô cùng sửng sốt, nhìn Lương Tiêu với ánh mắt đố kỵ.
Lương Tiêu chỉ mỉm cười không nói gì, trong lòng nghĩ: “Ta có việc quái gì đâu mà phải đến gặp ngươi.” A Lí Hải Nha lại nói:
- Tương Dương là nơi giáp gianh giữa hai nước, gần nước mình nhưng cũnggần nước Tống. Các ngươi đi cùng với nhóm của ta, có gì giúp đỡ nhauluôn.
Hắn thấy Lương Tiêu không trả lời thì nói với giọng điệu nghiêm túc:
- Bách Phu trưởng, nghe thấy không?
Lương Tiêu nói:
- Xin nghe lệnh đại nhân – trong lòng nghĩ: “Thế thì cũng được, trách nhiệm của mình sẽ nhẹ nhàng hơn.”
A lí Hải nha rất vừa ý, liền dẫn cả đám đi qua con đường núi trắc trở đểđến Tương Dương. Sử Phú Thông hồi nãy vừa bị yếu thế trước Lương Tiêu,bây giờ đột nhiên trở nên tỉnh táo, tìm cơ hội để đi đến bên cạnh A LíHải Nha, nói một cách nhẹ nhàng:
- Tiểu nhân đã nghe Vạn Hộ Gianói, Hải nha đại nhân và A Thuật đại nhân là bàn tay trái và phải của Bá Nhan nguyên soái, vốn dĩ quân Tống cũng có vài nhân vật lợi hại như LíĐình Chi, Lữ Đức, năm xưa đã từng giao chiến với Hoàng đế Hiến Tông,hiện nay cũng có thể xem là danh tướng, nhưng cũng không thể bản lĩnhbằng ngài và A Thuật đại nhân.
A lí Hải nha vốn tính thẳng thắn, nhưng khi nghe những lời tâng bốc như vậy, cũng cảm thấy có chút khoan khoái, mỉm cười nói:
- Ta sao bằng A Thuật đại nhân? A Thuật đại nhân dùng binh lợi hại, người Tống gặp ông ta như gặp hổ báo. Tương Dương có được ngày hơm nay cũngdo ông ta lập nên, công lao của ta cũng không là gì cả. Kể ra thì LíĐình Chi và Lữ Đức cũng dựa vào thành trì kiên cố, cố gắng cầm cự. Anhminh như thánh thượng nhưng năm xưa cứ công đánh người Tống là cầm nhưthất bại, chỉ vì quân ta không quen thủy chiến, chứ không phải là 2 kẻnày lợi hại, hiện nay thánh thượng chỉnh sửa khuyết điểm, đẩy mạnh huấnluyện lính thủy. Nam chinh lần này. đương nhiên phải bổ khuyết tăng ưu,để xem 2 người này sẽ chống đỡ như thế nào?
Nói đến đây, trên mặt hắn lộ chút kiêu ngạo.
Sử Phú Thông than thở và nói:
- Tiểu nhân sống ở vùng quê nghèo nàn xa xôi, không biết gì hết. Ôi,thánh thượng thần minh anh duệ, thánh ý cao thâm, chúng tôi không thểđoán được ý ngài như đại nhân. Nếu có gì chưa hay chưa phải, xin đạinhân rộng lượng chỉ giáo.
A Lí Hải Nha hồi trước là một nông dân, xuất thân thấp hèn, tự mình khổ luyện thành tài mà giành được côngdanh. Vì vậy hắn rất ưa những người hiếu học hay hỏi như mình, bèn ngẩng đầu lên nói:
- Biết mình có chỗ chưa tốt và sửa đổi thì sau nàysẽ tốt hơn. Chỉ cần cố gắng tự học, tự rèn luyện thì chắc chắn sẽ cóngày thành công.
Hắn chợt hỏi thăm:
- Hmm, lúc trước không phải ngươi nói là bệnh sao? Giờ khỏe rồi à?
Sử Phú Thông thở dài và nói:
- Bệnh của tiểu nhân lúc tốt lúc xấu. Chính Lương Tiêu thì biết rõ nhất đấy, chỉ e rằng không thể chữa khỏi.
A Lí Hải Nha nhăn mặt nói:
- Ta biết một vài vị y sinh trong quân đội, y thuật cũng không tệ, khi đến trại thì ta sẽ cho họ xem bệnh cho ngươi.
Sử Phú Thông cảm thấy rất cảm kích chút nữa là xuống ngựa quỳ lạy, A LíHải Nha ngăn anh ta lại an ủi vài câu, quay lại thấy Lương Tiêu đang đichầm chậm phía sau, bèn cười và nói:
- Ngươi tên Lương Tiêu hả? Ngươi còn ít tuổi mà đã là nhân tài như vậy thì thật là hiếm có.
Sử Phú Thông nghe vậy, trong lòng cảm thấy ghen tỵ nhưng ngoài miệng vẫn mỉm cười:
- Nhìn hắn ta như vậy thôi chứ thật ra hắn rất khó hòa đồng với người khác.
A Lí Hải Nha nhăn mặt nói:
- Nghe ngươi nói vậy ta cũng thấy người này rất kiêu ngạo, những người tướng mạo bình thường không thể thuần phục được hắn ta.
Sử Phú Thông làm ra vẻ đáng tiếc:
- Đúng đó, cũng tại thế mà Vạn Hộ Gia không muốn sử dụng hắn ta.
A Lí Hải Nha chỉ cười nhưng không nói gì.
Lương Tiêu tuy cách xa họ, nhưng tai rất thính, hắn đã nghe hơn phân nữanhững gì Sử Phú Thông nói, chỉ mỉm cười một mình: “Cái tên này chỉ giỏinói bậy bạ, ngày mai đến lượt âm thận kinh rồi, ngươi liệu mà chuẩn bịhai xô nước, một bên uống và một bên xách theo đi”.
Lại nghe Sử Phú Thông nói:
- Nhưng không hiểu tại sao Hải Nha đại nhân lại đến đây, không ở Tương Dương giao chiến với quân Tống sao?
A Lí Hải Nha nói:
- Chúng ta từ kinh đô quay về, thánh thượng trước khi lên ngôi đã hai lần đánh Tống, nhưng đều thất bại trở về, nên vẫn chưa dứt khoát về chuyệnNam chinh. Các đại thần cũng tranh cãi kịch kiệt, Bá Nhan nguyên soái và A Thuật đại nhân đang bận việc binh không thể rời khỏi chiến trường, ra lệnh cho ta về triều bẩm cáo, xác định cương quyết việc Nam chinh. Ôi,vất vả bấy lâu, ta đã làm trọn những gì hoàng đế giao phó.
Sử Phú Thông quen thói tâng bốc, thấy vậy bèn xun xoe nịnh bợ thêm mấy câu, A Lí Hải Nha càng thêm sảng khóai.
Vừa nói chuyện, mọi người vừa đi vòng quanh chân núi, theo con đường củaMông Cổ đại quân mới mở ra, đi được một đoạn thì thấy có tảng đá núi đãchắn đi phần lớn của con đường, người và ngựa thì có thể vòng đường,nhưng xe thì khó mà vượt qua. A Lí Hải Nha nhăn mặt nói:
- Không lẽ, trên đỉnh núi trời mưa nên đã làm sạt lở tảng đá này sao?
Hắn hướng về Lương Tiêu nói:
- Ngươi cử vài người để khiêng tảng đá này đi.
Lương Tiêu chau mày rồi kêu mọi người khiêng cục đá đi. Cục đá lún sau vàođất, sơ sơ cũng thấy nó phải hơn vạn cân, Lương Tiêu và Thổ Thổ Cáp hợpsức lại cũng không nhúc nhích gì, các binh lính người Hán cũng đến giúpđỡ. Lương Tiêu gọi thêm mấy người, thế là mọi người đồng tâm hiệp lực,đẩy cục đá sang bên kia sườn núi.
Lúc đó, đột nhiên nghe tiếngroi cất lên, một người thôn nữ đi chung với một đứa nhỏ, một đi trướcmột theo sau, cầm roi và dẫn theo hai mươi mấy con bò, đi đến phía trước đội lính. Đứa nhỏ mặt mày trông sáng sủa, dùng roi quất đàn bò, độtnhiên hát lớn:
Vãn cung đương vãn cường,
Dụng tiễn đương dụng trường,
Xạ nhân tiên xạ mã,
Cầm tặc tiên cầm vương.
Sát nhân diệc vô hạn,
Liệt quốc tự hữu cương.
Hà năng chế xâm lăng,
Khởi tại đa sát thương.
(Mắt nhung dịch nghĩa:
Cầm cung lên bắn phải chọn thứ cung cứng
Dùng tên để bắn phải chọn thứ tên dài
Bắn giặc thì phải bắn ngựa trước
Bắt giặc thì phải bắt vua trước.
Giết người chẳng nên vô tội vạ,
Các quốc gia đều có biên cương lãnh thổ của riêng mình.
Tốt nhất cứ giữ lấy chỗ biên cương đó thôi,
Tại sao lại đi xâm chiếm đất đai của người ta?)
(Kiếp Nô dịch thơ:
Giương cung, cung cứng mới xài,
Dùng tên, tên phải thật dài mới hay.
Bắn giặc thì bắn ngựa ngay,
Còn khi tóm giặc chẳng ngoài tóm vua.
Sát nhân chẳng thể lạm đùa,
Biên cương lãnh thổ hơn thua làm gì?
Chẳng thà hãy giữ yên đi,
Gieo bao oan trái chỉ vì lấn xâm.)
Âm thanh trong và rõ, bước chân cũng ngày càng tiến gần đến đội ngũ quân nhân.
A Lí Hải Nha hiểu tiếng Hán nên nghĩ rằng: “Không ngờ một thằng nhỏ nhưvậy cũng biết thi ca.” A Lí Hải Nha cũng là đại hành gia về âm nhạc,thấy thằng nhỏ hát vậy, cũng cảm thấy lời lẽ rất vừa tai. Bấy giờ ngườicon gái kia nói:
- Em trai hát hay lắm, chị cũng hát một bài nhé.
Da thịt cô ta trắng hồng, đôi mắt như người trong tranh, tuy là mặc tấm áo bình thường, đầu tóc cũng chỉ bình thường nhưng mang đậm tính chất củamột tiểu thư, hé đôi môi hồng mà hát:
Khu mã thiên vũ tuyết,
Quân hành nhập cao sơn,
Nguy kính bão hàn thạch,
Chỉ lạc tằng băng gian.
Khứ dĩ Hán nguyệt viễn,
Hà thì trúc thành hồn,
Phù vân mộ nam chinh,
Khả vọng bất khả phàn.
(Dịch thơ: bản của Anh Nguyên - Lương Sơn Bạc.com
Trời mưa tuyết, thúc ngựa mau,
Tiến quân, vội vã đi vào núi cao.
Đường mòn, vách đá lạnh bao,
Bước chân từng bước rơi vào tuyết băng.
Đã xa đất Hán đầy trăng,
Bao giờ thành đắp đã xong mới về.
Mây chiều theo hướng Nam đi,
Trông theo thì được, theo thì khó theo.)
Mọi người nhìn cô ta xinh đẹp, tiếng hát lại hay, mắt thấy tai nghe, làm ai cũng thẩn thờ. Chỉ một chốc đàn bò đã đến trước mặt đội binh, mọi người đều cảm thấy hai người xuất hiện cũng hơi lạ lùng, nhưng mà họ không để ý, vì đó chỉ là một thằng nhóc và một người con gái.
Lương Tiêuđã đẩy cục đá lên trên đồi, lấy một miếng đá nhỏ chặn lại rồi nghỉ ngơimột chút. Hắn quay lại nhìn, cảm giác người con gái và thằng nhóc nàydường như rất quen thuộc, cảm thấy bực bội bèn nói lớn:
- Hai người làm gì đó ?
Hai người nhìn thấy mặt hắn đều ngạc nhiên, nguyên lai người con gái nàychính là Sở Uyển còn thằng nhóc là Phong Miên. Hai người này thấy LươngTiêu liền tỏ ra lo sợ. Mọi người thấy Lương Tiêu tranh cãi với hai người thì đều cảm thấy kì lạ.
A Lí Hải Nha hét lớn:
- Lương Tiêu, ngươi nói cái gì vậy?
Lương Tiêu thấy Phong Miên thì đột nhiên nghĩ đến Vân Thù, liền cảm thấy tứcgiận. Hắn không đáp lại A Lí Hải Nha, chạy lên phía trước một bước nói:
- Thằng nhóc, ngươi giả trang đến đây làm gì?
Phong Miên liếc mắt nhìn quanh, cười và nói:
- Đương nhiên là chăn bò rồi, ở đây không phải là Phục Ngưu Sơn sao?
Lương Tiêu lại chửi:
- Ngươi chăn bò hả, chăn rắm thì đúng hơn!
Lời nói chưa dứt, đột nhiên nghe thấy tiếng hát ở bên kia sườn núi, bài hát như sau:
Đan vu khấu ngã lũy,
Bách lí phong trần hôn,
Hùng kiếm tứ ngũ động,
Bỉ quân vi ngã bôn.
(Fullhouse_love dịch thơ:
Đan vu giặc cướp thành ta,
Hàng trăm dặm bụi gió tà đưa chân,
Vung kiếm vũ động tứ thân,
Đuổi giặc cùng quẫn chạy gần chạy xa).
Lương Tiêu nghe giọng quen thuộc quá, bèn ngước đầu nhìn theo thì thấy mộtngười với bộ áo trắng như bông tuyết, một tay giấu sau lưng, một tay cầm cuốn sách, bước chân trông chậm nhưng lại nhanh, bộ pháp như mây nhưnước, chẳng phải ai khác, chính là Vân Thù.
Lương Tiêu đâu ngờhắn cũng đến đây, trong lòng đang suy nghĩ, đột nhiên thấy Phong Miên và Sở Uyển lấy ra dụng cụ bắt lửa, đốt cháy những viên pháo buộc đằng đuôi bò.
Đàn bò hoảng sợ nên cứ chạy thẳng về phía trước nhằm thoáthiểm. Đột nhiên đàn bò xông vào đám lính, họ cũng không ngờ đàn bò sẽxông vào, trở tay không kịp nên làm cho đội quân rối loạn cả lên, trâubò của đội vận chuyển cũng bị làm hoảng sợ, cung tên của Lương Tiêu vàThổ Thổ Cáp đang ở trên ngựa, lúc đó cũng cảm thấy hoảng loạn, muốn lấycung tên để bắn trâu bò thì cũng không kịp nữa, chỉ trơ mắt nhìn đàn bòlàm loạn đội lính.
Khi hai người châm lửa, Vân Thù cười dài, cười vang cả trời, chỉ thấy trong rừng từ hai bên đồi, đầu người nhốn nháo,đột nhiên hiện ra mấy trăm người. Vân Thù bỏ tay phải xuống, trong taylập tức xuất hiện một thanh cổ kiếm có vân lấm tấm, lại hát:
Lỗ kì danh vương quy,
Hệ cảnh thụ viên môn.
Tiềm thân bị hành liệt,
Nhất thắng hà túc luân!
(Fullhouse_love dịch thơ:
Chém đầu vua chúng quay về
Đem treo lên cổng liền kề viên môn.
Quân ta thẳng lối hành quân
Một phen thắng trận nước non thanh bình).
Mọi người đều đồng thanh hát to:
Tiềm thân bị hành liệt,
nhất thắng hà túc luân!
Trong khi ca hát, mọi người đều cầm lấy thương,đao, chùy, cung, vừa hát vừa đi xuống đồi.
Vân Thù đưa kiếm đi trước, hình bóng thanh kiếm phản chiếu loạn xạ. Chémrụng tay chân kẻ địch như lá cây rụng cành, máu tươi văng khắp mọi phíanhư mưa, bắn vào tà áo trắng của Vân Thù, đẹp như những bông hoa đào mới nở, vừa vung tay vài cái và đi vài bước thì đã đến trước ngựa của A LíHải Nha, bởi khi thấy trang phục của kẻ này thì đã biết đó là thủ lĩnh,bèn nhanh chóng nắm lấy người hắn ta và chém vào giữa đầu.
A LíHải Nha đã quen chiến trận, thấy tình hình không ổn, đã xoay người luồnvào bụng ngựa, vẫn chưa định thần thì thấy một khuôn mặt trẻ trung ápsát mặt mình,không ngờ lại là thằng nhóc chăn bò. A Lí Hải Nha không kịp chống đỡ, thì đã bị thằng nhóc nắm lấy yếu huyệt, thấy Sử Phú Thông bỏchạy đằng xa, hắn hét lớn:
- Đến cứu ta nhanh lên!
Nhưng lúc đó Sử Phú Thông đã khiếp sợ hết mức, chỉ muốn tìm cách tháo chạy, còn lo quái gì một “Hải Nha đại nhân” nữa.