Tứ gia nghe Song Nhi nói vậy, không khỏi cũng cười: “Xấu đến thế sao?”
Song Nhi gật đầu, nói: “Không nhìn ra nổi là chữ gì…Khoan, thực sự rất giống chữ trên phong thư.” Nàng nói xong liền quay lại nhìn đám Lạt ma một cái.
Tứ gia gật đầu, không giải thích gì thêm, giơ tờ giấy kia lên, chờ mực khô đi liền gấp lại, cẩn thận bỏ vào trong phong thư, ở bên ngoài lại viết thêm mấy chữ. Song Nhi lúc đầu không để ý tới, nhưng nhìn kỹ một lát thì sợ hãi kêu lên: “Tiểu Bảo, ngươi thật lợi hại, giống như đúc a!”
Phong Tế Trung Lí Lực Thế nghe xong, cũng chạy lại nhìn, kinh ngạc không thôi. Chữ viết trên hai phong thư quả thực giống nhau y đúc, khó lòng phân biệt thật giả. Chữ Tạng mọi người đều không biết, nhưng công phu bắt chước nét chữ của Tứ gia thì ai cũng có thể thấy được.
Tứ gia nói: “Phong đại ca, Lý đại ca, các ngươi cứ theo như kế hoạch đã bàn. Thư đây, cẩn thận làm việc.”
Hai người chắp tay hành lễ: “Tuân mệnh công tử.” Nói xong, Phong Tế Trung cẩn thận nhét thư vào lòng, lại cùng Lí Lực Thế kéo mấy tên Lạt ma ra ngoài.
Song Nhi hỏi: “Tiểu Bảo, ngươi định xử trí mấy Lạt ma này thế nào?”
Tứ gia thấy nàng tuổi còn nhỏ, sợ nàng không chịu nổi cảnh giết chóc, hoặc giả nếu tệ hơn có khi còn nảy sinh xung đột với mình, vì vậy lúc trước mới cố ý đuổi nàng đi để nói chuyện riêng với hai người Phong Lí. Lúc này nghe nàng hỏi, hắn qua loa nói: “Đem bọn họ kéo ra ngoài, đưa lên quan phủ.”
Quả nhiên, Song Nhi rất vừa lòng với cách giải quyết này, nàng nói: “Cũng nên giáo huấn bọn họ một chút, dám dùng thuốc mê, bọn người này xem ra thường xuyên giở trò trộm cướp a.”
Tứ gia nói: “Đương nhiên phải làm vậy rồi.”
Ngày hôm sau, khi Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền tỉnh dậy, không thấy hai người Phong Lí đâu thì khá ngạc nhiên. Trương Khang Niên ngáp một cái, nói: “Tối hôm qua không biết tại sao mà ngủ ngon thế nhỉ, mở mắt ra đã thấy trời sáng rồi.”
Triệu Tề Hiền nói: “Ta cũng vậy, có lẽ là mấy hôm nay bôn ba vất vả quá sức, sau này nhất định phải cảnh giác một chút. Đúng rồi, sao không thấy Phong đại ca, Lý đại ca đâu?”
Song Nhi cũng chạy đi tìm quanh, mà Tứ gia thì bình thản uống trà, cảm thấy trà này vừa chua vừa nhạt, so với trà cống phẩm trước đây hắn thưởng thức thì một trời một vực. Miễn cưỡng hớp một ngụm nhuận giọng, Tứ gia mới nói: “Hai người bọn họ có việc, tối hôm qua ra ngoài rồi. Chúng ta ăn xong điểm tâm rồi lên đường, không cần chờ.”
Kẻ ở trong cung, quan trọng nhất là khéo léo, biết chuyện nào nên hỏi chuyện nào không nên, vì thế Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền liền vội gật đầu: “Đúng vậy, đúng vậy, ăn cơm trước.”
Bốn người ăn cơm xong, Trương Khang Niên mới hỏi: “Công tử, giờ chúng ta đi đâu?”
Tứ gia nói: “Ngươi và Triệu đại ca ra ngoài mua ít hương hoa oản quả cho ta. Phía trước là núi Ngũ Đài, nghe nói chùa trên núi rất thiêng. Chúng ta lần này có dịp đi ngang qua, cũng nên lên đó cúng bái cầu xin thần Phật một chút.”
Nói xong, hắn lấy tờ ngân phiếu ra, nói: “Quần áo tăng nhân cũng chuẩn bị luôn đi, chọn hẳn loại tốt nhất ấy, đừng để người ngoài nói chúng ta keo kiệt. Còn nữa,…các ngươi mua một bộ nam trang cho Song Nhi đi, ta nhớ chùa chiền hình như không cho phép nữ nhân bước vào.”
Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền thấy tiền thì mắt sáng rực lên, nhanh chóng chạy đi.
Hai tên thị vệ này tuy nhát gan, lại thiếu kinh nghiệm giang hồ nhưng làm mấy công việc vặt vãnh thì hiệu suất rất cao. Chẳng mấy chốc Trương Triệu hai người đã mua xong gần hết đồ. Ôm không xuể, họ còn thuê mấy người địa phương vác hộ mang tới quán trọ. Về tới nơi, hai người đưa lại cho Tứ gia ba trăm lượng bạc, mà Tứ gia, sau khi kiểm tra xong chỗ đồ, cảm thấy vừa lòng liền thưởng luôn số tiền thừa cho hai người kia.
Song Nhi thay nam trang, giả làm thư đồng đi theo Tứ gia lên núi. Dọc đường đi, Trương Triệu hai người vui vẻ ra mặt, cười nói không ngừng. Đường lên núi càng lúc càng gập ghềnh quanh co, sau một hồi lâu, đoàn người mới lờ mờ nhìn thấy trong màn mây bóng dáng một ngôi chùa cũ nát, bên trên đề ba chữ “Thanh Lương Tự”.
Chú tiểu canh ngoài cổng chùa thấy có người đến, vội vàng đi vào thông báo. Không lâu sau, Trừng Quang đại sư đã ra nghênh đón bọn họ.
Trừng Quang tươi cười rạng rỡ, hai mắt tỏa sáng nhìn đống đồ lễ sau lưng Tứ gia. Phải biết Thanh Lương Tự không phải là chùa lớn, cho nên từ trước đến giờ, đây là lần đầu tiên trụ trì như hắn nhìn thấy “Thần Tài” a.
Tăng nhân trong Thanh Lương Tự cũng vậy. Họ ngày ngày sống cuộc sống kham khổ, nay nhìn thấy quần áo mới, trong chốc lát vui mừng không thôi, hoan hỉ chạy ra xem, miệng không ngừng niệm “A Di Đà Phật”.
Nhìn Trừng Quang ngồi ghế trên, Tứ gia khom lưng, nói: “Tại hạ họ…Quế, là người Dương Châu, không quản đường sá xa xôi tới đây, chính là vì gia đình xưa nay đều thành tâm lễ Phật. Mấy ngày trước, một hòa thượng có tới nhà ta, nói rằng trong nhà sắp xảy ra tai họa, muốn tránh phải đi xa ngàn dặm lễ bái. Trên đường trắc trở gập ghềnh nên tại hạ chỉ có thể mang theo từng này đồ, xin phương trượng vui lòng nhận cho.”
Trừng Quang nói: “A Di Đà Phật, thí chủ có lòng thành như vậy, Phật tổ đương nhiên sẽ phù hộ gia đình thí chủ bình an vượt qua tai kiếp.”
Tứ gia nói: “A Di Đà Phật, đa tạ đại sư đã ban phước. Một chút lễ mọn này nếu không đủ, còn có…” Tứ gia rút ngân phiếu trong ống tay áo ra, dâng lên Trừng Quang, “Cảm phiền đại sư lập đàn tràng cầu an ba ngày trong chùa.”
Trừng Quang cúi đầu nhìn, thấy trên tay Tứ gia là ngân phiếu ba ngàn lượng, cao hứng đến tay cũng run lên, vội vàng nói: “Thí chủ thành tâm thành ý như vậy, lão nạp sao có thể từ chối được.”
Tứ gia gật đầu, đợi Trừng Quang nhận tiền xong lại khoanh tay thở dài: “Con người trên đời này, hơn phân nửa là những kẻ ham mê vinh hoa phú quý. Lại không hiểu thấu được giáo lý nhà Phật, không tức là sắc, sắc tức là không. Tại hạ năm xưa cũng là kẻ tục tằng như vậy, cho nên lần này lên núi, muốn mượn linh khí trong chùa tẩy trừ ô trọc của bản thân…”
Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền đứng một bên nghe mà nghẹn họng nhìn trân trối, Song Nhi cũng ngơ ngác nhìn Tứ gia, hoàn toàn không hiểu hắn đang lảm nhảm cái gì…Mà Trừng Quang thì hai mắt lại sáng lên, nói: “Thiện tai, thiện tai, thí chủ thực có duyên với nhà Phật.”
Tứ gia cười, vẻ mặt dường như vừa được ngộ đạo xong, nói: “Đúng rồi, xin hỏi đại sư, không biết trong chùa còn phòng trống hay không? Chỉ cần có chỗ trú là được rồi…”
Trừng Quang do dự một lát, cuối cùng nói: “Phòng…thì thật ra vẫn còn, chỉ là quá mức cũ kĩ…sợ rằng thí chủ ở không quen.”
Tứ gia nói: “Ngày xưa Phật tổ ngồi dưới gốc bồ đề mà ngộ đạo, ta nay lại yêu cầu xa hoa phí phạm, vậy há chẳng phải khinh nhờn đạo lí hay sao?”
Trừng Quang ngẩn ra, sau đó vỗ tay, nói: “Lời của thí chủ thật khiến lão nạp mở mắt.”
Nói xong, Trừng Quang quay đầu lại: “Người đâu, dẫn Quế thí chủ về dãy nhà sau hậu viện nghỉ ngơi.”
Tứ gia chắp tay trước ngực: “Đa tạ đại sư.”
Đoàn người đi tới hậu viện, quả nhiên thấy một khu nhà hoang vu cũ nát, cỏ dại mọc thành bụi chỗ chân tường, cửa sổ thì thủng lỗ chỗ. Trương Khang Niên nói: “Lão hòa thượng hóa ra không hề nói dối, nơi này thực không phải cho người ở.”
Triệu Tề Hiền cười: “Cũng may là còn có phòng, ít nhất vẫn che mưa chắn gió được.”
Trương Khang Niên vung tay một cái, đập chết một con muỗi, lầu bầu: “Che mưa chắn gió thì được, nhưng mà không che nổi muỗi đâu. Đêm nay xem ra ta phải hi sinh máu huyết của bản thân rồi.”
Song Nhi hỏi: “Tiểu Bảo, vừa rồi lúc ở đại sảnh ngươi nói với lão hòa thượng, cái gì đó ‘sắc tức là không’ nghĩa là gì, ta nghe không hiểu?”
Tứ gia nói: “Ngươi hiểu hay không không quan trọng, quan trọng là Lão hòa thượng đó nghe hiểu.”
Trương Khang Niên cười hì hì: “Song Nhi cô nương, thấy công tử nhà chúng ta lợi hại chưa? Nhưng như thế thì ngươi càng nên yên tâm, chúng ta chỉ cần nghe theo sắp xếp của công tử là chắc chắn thành công.”
Triệu Tề Hiền cũng phụ họa theo đuôi. Tứ gia nhìn hai người, một bên ca tụng mình lên tận trời, một bên thì đập muỗi bôm bốp, cười nói: “Nhưng ta không sắp xếp được mấy con muỗi này đâu, cho nên các ngươi đành phải tự nghĩ biện pháp đuổi nó đi rồi.”
Trương Khang Niên nói: “Ta đi ra ngoài hỏi tăng nhân trong chùa xem có cách nào không.” sau đó định kéo Triệu Tề Hiền đi. Tứ gia gọi hai người lại, nói: “Khoan đã, nhớ rõ không được tiết lộ thân phận…Ừm, nếu có ai hỏi tại sao các ngươi nói giọng kinh thành thì các ngươi sẽ trả lời thế nào?”
Triệu Tề Hiền đảo mắt một lát, nói: “Chúng ta sẽ nói mình là người được công tử thuê làm hộ vệ, có được không?”
Tứ gia cười: “Vô cùng tốt!”
Song Nhi thấy hai người kia cười hi hi ha ha rời đi, liền hỏi: “Tiểu Bảo, ngươi…càng ngày càng lợi hại. Vừa rồi lúc nói chuyện với lão hòa thượng kia…”
Tứ gia hỏi: “Làm sao?”
Song Nhi lắc đầu, nói: “Aizz, ta cũng không biết phải diễn tả thế nào, chỉ cảm thấy là lạ.”
Tứ gia thấy nàng tỏ ý nghi ngờ, liền cười: “Được rồi, đừng nghĩ nhiều. Mà Song Nhi, ngươi xem Trừng Quang đại sư kia có biết võ công hay không?”
Song Nhi nghe hắn hỏi vậy, liền nói: “Ta thấy hai mắt hắn sáng quắc tinh tường, hẳn là người võ công, nhưng không biết có cao cường không.”
Tứ gia nói: “Ừ…Về sau sẽ biết.”
Một lát sau, hai người Trương Triệu trở về, tố khổ với Tứ gia: “Đám hòa thượng kia thật dở người, hừ, còn nói không được sát sinh. Chẳng lẽ chúng ta mở lòng từ bi không giết con muỗi mà để nó hút khô máu chúng ta sao?”
Tứ gia khi nãy cũng bị đốt mấy nhát, hơi ngưa ngứa khó chịu nhưng vì thể diện mà không dám kêu khổ.
Song Nhi nói: “Ta nhớ cây ngải có thể đuổi muỗi. Không sao, ta đi ra ngoài tìm một chút, đốt lên là tốt rồi.”
Ba người nghe vậy thì mừng rỡ vô cùng, vội thúc giục Song Nhi mau đi.
Giữa trưa, Trừng Quang mời bốn người ra trai phòng dùng đồ ăn, sau đó lại đích thân dẫn Tứ gia đi tham quan trong chùa. Thanh Lương Tự quả nhiên không lớn, chỉ là một chùa nhỏ đơn sơ, bên trong đặt tượng của Phật tổ Như Lai và mười tám vị La Hán…Nhưng lúc trở về hậu viện, Tứ gia tinh mắt lưu ý đến một phòng ở góc khuất, cửa phòng đóng chặt, chung quanh cũng không thấy có bóng tăng nhân nào.
* trai phòng: phòng của tăng ni. Ở đây là chỉ phòng ăn chung trong chùa.
Tứ gia không hỏi, chỉ trao đổi một chút giáo lí nhà Phật với Trừng Quang. Trừng Quang thấy Tứ gia kiến thức uyên thâm thì vô cùng đắc ý, ánh mắt nhìn Tứ gia cũng khác hơn trước.
Về đến cửa phòng, Tứ gia nói: “Mấy năm gần đây tại hạ sở dĩ không viếng thăm các chùa lớn, chính là bởi cảm thấy những nơi đó thiện nam tín nữ tới lui nườm nượp, không khí cũng trở nên xô bồ. Mà ở nơi này, ta lại thấy lòng mình bình an gần gũi đất trời, thực là chốn ngọa hổ tàng long.”
Trừng Quang nghe Tứ gia hết lòng khen ngợi thì mỉm cười: “Thiện tai, thiện tai, điều Quế thí chủ vừa nói, không phải ai cũng ngộ ra được.”
Tứ gia lại nói: “Ta thấy đại sư mắt sáng mày cao, tinh thông kinh Phật, tất nhiên cũng là người ngọa hổ tàng long.”
Trừng Quang nói: “Đâu dám, đâu dám, thí chủ quá đề cao ta rồi. Chỉ là, nói thật, bản tự tuy nhỏ, nhưng thật cũng có ngọa hổ tàng long.”
* bản tự: chùa của ta.
Tứ gia trong lòng rúng động, nhưng ngoài mặt lại không thể hiện ra điều gì, chỉ bình tĩnh gật đầu: “Ta đã sớm đoán được, vừa thấy đại sư, tại hạ đã biết ngài không giống những kẻ phàm phu tục tử.” nói xong, hắn kính cẩn cúi lạy Trừng Quang.
Trừng Quang vội vàng nói: “Thí chủ xin đừng làm vậy, lão nạp không phải là nói mình.”
Tứ gia nhíu mày, lúc này mới hỏi: “Nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên. Chỉ là ta đã gặp tất cả các thiền sư trong chùa, trong lòng cảm thấy không ai có khả năng bằng đại sư? Chẳng lẽ ta sai rồi sao?”
* Nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên: Bên ngoài bầu trời có bầu trời khác, người hay có người khác hay hơn. Tương đương với câu tục ngữ “vỏ quít dày có móng tay nhọn” hoặc “cao nhân đắc hữu cao nhân trị”
Trừng Quang không hề biết mình đã rơi vào bẫy của Tứ gia, hơi thoáng do dự rồi nói: “Không dám dối gạt thí chủ, sư thúc tổ Ngọc Lâm thiền sư của ta mới chân chính là bậc lão giả cao thâm.”
Tứ gia nói: “Ngọc Lâm thiền sư? A, không biết ta có thể được gặp ông ấy hay không?”
Trừng Quang nói: “Xin thí chủ thứ lỗi, sư thúc tổ xưa nay không gặp người lạ, hơn nữa lúc này thiền sư đang bế quan.”
Tứ gia thở dài: “Vô duyên, vô duyên.”
Trừng Quang nói: “Mấy ngày nữa sư thúc tổ sẽ xuất quan, nếu lúc đó thí chủ còn ở trong chùa, ta có thể nói với sư thúc tổ một câu. Chỉ là, cũng chưa chắc có thể gặp được.”
Tứ gia cười nói: “Được đại sư coi trọng như vậy, tại hạ cũng đã thỏa mãn rồi!”
Trừng Quang thấy Tứ gia vẻ mặt thất vọng nhưng cũng không cố cưỡng ép, lại càng thêm yêu thích vị thí chủ vừa hào phóng lại vừa tinh thông Phật pháp này.
Chiều hôm đó Tứ gia ở trong phòng nghỉ ngơi, định bụng đến tối sẽ hành động. Không ngờ mới nằm xuống một lát, lại nghe thấy bên ngoài huyên náo một hồi.
Trương Khang Niên, Triệu Tề Hiền cũng nghe thấy tiếng động, sợ Tứ gia gặp chuyện không may, vội vàng chạy tới. Tứ gia nói: “Đi ra ngoài xem có chuyện gì.”
Hai người lĩnh mệnh mà đi, một lát sau quay lại, hoảng loạn nói: “Công tử, không hay rồi, bên ngoài có rất nhiều Lạt ma đang la hét rất hung dữ, nói là một tiểu Lạt ma nào đó bị hòa thượng trong chùa bắt cóc.”
Triệu Tề Hiền còn nói: “Kỳ lạ, chùa này cơm cho tăng nhân còn chẳng đủ, bắt thêm tiểu Lạt ma về làm gì. Chẳng lẽ, chẳng lẽ là ăn thịt người sao?”
Song Nhi bị lời hắn nói dọa sợ, nói: “Ngươi không được ăn nói linh tinh!”
Tứ gia suy nghĩ một lát, hít sâu một hơi, mùi cỏ ngải bị đốt ngập tràn trong khoang mũi, nói: “Tìm tiểu Lạt ma? Cái này chưa chắc. Chỉ sợ là ‘Hạng Trang múa kiếm, ý tại Bái Công..