Trương Nhu vốn trước là tướng trấn thủ thành Xích Phong, cách Liêu Dương hai trăm dặm về phía Tây. Lần cuối bọn Đạo, Hà nghe tin về hắn, hắn đã thua bỏ thành mà chạy lên Nguyên Bảo Sơn cố thủ. Từ đó trở đi không biết một tin gì về họ Trương nữa, té ra đã hàng giặc rồi.
Thực tình, tình trạng tướng sĩ Kim quốc đầu hàng quân Hung Nô mỗi lúc một phổ biến. Sau khi quân Mông Cổ tràn qua biên giới, một trận phá bốn mươi vạn quân Kim, quan dân đã mất lòng tin vào chính quyền. Chương Tông cứ vậy để Thành Cát Tư Hãn chiếm cứ hai châu Tây An và Bắc Kinh, không chút cứu trợ. Quân Mông Cổ sau đó đánh vào Hoa Bắc, cướp đoạt tứ xứ, Thừa tướng Đồ Đan Dật đích thân ra trận còn bị Triết Biệt một đao chém chết. Trong triều thì Hồ Sa Hổ giết Chương Tông, lập Tuyên Tông lên ngôi vua, xong chính Hồ Sa Hổ cũng bị bọn Ô Cổ Kinh lật đổ, Thủ Trung lên nắm quyền, vị trí kẻ đứng đầu triều cứ xoay như chong chóng, bảo sao quân tướng không kẻ oán thán, kẻ quy hàng?
Sự thực rành rành là vậy, nhưng bọn Ô Di Hà, Ô Di Đạo vẫn khư khư một lòng trung bất diệt. Thấy tướng Kim hàng giặc, bọn họ ai nấy đều sôi máu.
Ô Di Đạo lăm lăm đại đao, răng nghiến ken két. “Ta phải đích thân chém thằng giặc bán nước cầu vinh đó làm đôi mới hả dạ!”
Ô Di Hà nạt, “Chớ được manh động! Ta đông quân hơn chúng, nhưng đây chỉ là lũ hoa tiêu, chúng ắt sẽ về báo cáo với chủ tướng. Giờ ta lương thực đầy đủ rồi, phải kiên nhẫn đợi bọn chúng đi hết, rồi cứ theo đường rừng mà tới Dinh Khẩu kịp lúc.”
Đạo mới tỉnh ra, hạ đao, giấu mặt vào trong bụi rậm. Bọn họ quan sát thêm ít lâu, thì quả nhiên Trương Nhu phái hơn chục kỵ binh quay đầu phi nước đại. Bản thân Trương Nhu dẫn dăm quân kỵ đi xung quanh. Bọn chúng nheo mắt nhìn về phía khu rừng, chậm rãi tiến lại gần. Dù là không nhìn về phía lũ Ô Di Hà đang ẩn nấp, nhưng nhiều kẻ trong số họ đã bắt đầu tim đập chân run. Trương Nhu tiến vào gần khu rừng hơn, thương từ sau lưng đã rút ra sáng loáng, bọn Cổ Mạnh Ninh, Kiều Sinh Nhai tới thở còn không dám thở mạnh nữa.
Trương Nhu soi xét thêm một lúc lâu nữa, rồi cuối cùng quay ngựa trở về. Cả bọn trong bụi rậm thở phào nhẹ nhõm. Ô Di Đạo mới lùi lại, vươn vai đứng dậy, chẳng may vấp phải con ngựa đứng ngay phía sau, thế là nó hí lên một tiếng. Cả bọn kỵ binh Mông Cổ nhất nhất nhìn về phía Ô Di Đạo
“Chết cha!” Ô Di Đạo mới kêu lớn.
“Sao lại to tiếng vậy?” Kiều Sinh Nhai quát.
Đạo quát lại, “Thì đằng nào chả lộ rồi! Ta giữ im lặng nãy giờ rồi, giờ hãy cho ta giải tỏa chứ!”
“Có người!” Trương Nhu hô lớn, lập tức khoát tay cho bọn kỵ binh phi nước đại về phía bìa rừng. Chúng chỉ có hơn chục quân kỵ, nhưng sở dĩ họ Trương ra lệnh xông vào ngay lập tức là vì hắn rất tự tin vào võ công của bản thân. Hắn vốn là môn đồ nội môn của Cương Giản Bắc phái, cùng với Đắc Kỷ và Sùng Sương là ba đại võ phái Kim triều. Cương Giản là chính tông võ phái của triều đình, có nhiều môn tử nắm chức vụ cao trong triều đình nhất, nhưng cũng vì thế mà nội tình rất phức tạp. Bản thân Cương Giản phái chia làm bốn nhánh khác nhau, trong đó Trương Nhu là đệ tử Cương Giản Bắc phái, chú trọng thương pháp, dưới đất hay trên lưng ngựa đều thuần thục.
Ô Di Hà ngay lập tức cho quân tản ra ba bên, nấp vào các bụi rậm, kiếm thương sẵn sàng. Những người này đã quen dàn trận mai phục tới cả trăm lần, vào vị trí chính xác vô cùng, không một chút trễ nải. Quân Mông Cổ xông vào trong rừng, quân của Ô Di Hà mới nhất tề xông ra. Lũ kỵ binh đi theo Trương Nhu đều là trọng kỵ nước Kim, mặc giáp nặng nề khó linh động, lấy kiếm chém xuống thì vướng phải thân gỗ, dây leo. Nhiều kẻ chưa giết được mạng nào đã bị xô xuống ngựa, chém vào mặt chết tươi.
Trong hàng ngũ quân Mông Cổ, ngoài Trương Nhu ra có hai kẻ đặc biệt dũng mãnh, một lúc cầm thương giết ba người. Kiều Sinh Nhai, Cổ Mạnh Ninh thấy vậy, lập tức hai bên một thương một phủ lao vào, liên thủ với tên kỵ binh năm hiệp. Nhưng Kiều Sinh Nhai cầm thiết phủ nặng nề, chiến đấu trong rừng không gian chật hẹp quả thực bất tiện, khiến thân thủ y chậm chạp. Tên kỵ binh bình tĩnh quay lại, một thương đâm thẳng vào vai Sinh Nhai. Nhai không kịp tránh, bị đả thương nằm lăn ra đất. Cổ Mạnh Ninh thúc thương vào cổ con ngựa của tên kỵbinh. Con ngựa đau đớn đá hai chân trước, hất hắn xuống ngựa. Mạnh Ninh cùng hai quân lính nữa đồng loạt xông vào. Tên kỵ binh dù đã nằm dưới đất vẫn xiên một thương trúng cổ người bên cạnh Mạnh Ninh. Người đó ọc máu chết ngay. Phải thêm hai người nữa nhảy vào chém tên kỵ binh lia lịa, hắn mới chịu chết.
Cổ Mạnh Ninh quay ra thì thấy Kiều Sinh Nhai đang ngồi trên mặt đất, tay ôm vai máu chảy đầm đìa. Tên kỵ binh còn lại đã nhìn thấy y, thúc ngựa xông tới. “Đứng dậy mau!” Cổ Mạnh Ninh vội vàng chạy tới ứng cứu. Tay kỵ binh kia trên lưng ngựa đang được đà dũng mãnh, lăm lăm kiếm trên tay, tưởng chừng cả đầu Mạnh Ninh và Sinh Nhai sắp lìa khỏi cổ.
Từ trên không trung lướt xuống một thiếu hiệp, cử động nhẹ nhàng như mây gió, nhằm thẳng trước mặt tay kỵ binh mà đánh tới. Hắn cả kinh ngẩng mặt lên, thì trước mặt hắn hiện ra tới năm bảy thanh kiếm khác nhau, không biết đâu là hư đâu là thực. Hắn đã trúng phải Kinh Vân Ảnh của Hoàn Thừa Lân.
Tay kỵ binh chưa kịp nhìn ra, đã bị kiếm của Thừa Lân xuyên qua ngực, gục trên ngựa chết.
Thừa Lân vội đỡ Kiều Sinh Nhai dậy. Bọn Kiều, Ninh cảm kích đáp, “Không có Hoàn đệ thì bọn ta chết ở đây rồi!”
Lân vội đáp, “Hai huynh đừng khách khí. Cổ huynh còn sức, mau mau dìu Kiều huynh ra khỏi đây.”
Vừa lúc đó, một con ngựa vô chủ đứt cương xông thẳng tới nơi Thừa Lân đang đứng. Lân vội vàng lăn sang một bên thì một kỵ binh khác, giờ không còn trên lưng ngựa, nhằm thân hình đang di chuyển của Lân mà chém thẳng xuống. Hắn chém phải đất, nhưng chỉ nhanh chút nữa thôi là đã chạm tới da thịt Lân rồi. Lân nhìn quanh thì thấy ba thi thể, biết là đã mất quá nhiều nhân mạng, phải giải quyết trận giao tranh ngay bây giờ. Dù mới là trận thực chiến thứ hai của chàng, nhưng chàng tâm đã vững như bàn thạch, không hề nao núng.
Tên kỵ binh kia vốn là người Kim, dùng kiếm nước Kim, nói tiếng nước Kim. Hắn nhìn Thừa Lân một lượt, nở nụ cười khô khốc. “Ngươi không hàng Mông Cổ, sớm muộn rồi cũng sẽ chết thôi.”
Thừa Lân múa một đường kiếm, vào thế thứ năm của Hạc kiếm pháp. Tên kỵ binh kia đã để cho chàng có thời gian vào thế, vận công. Kết cục giao tranh đã định rồi. Chàng nói, “Đừng nhiều lời. Tới đi.”
Còn Trương Nhu một mình một ngựa đã giết được năm người, thấy xung quanh tả hữu đã thưa thớt dần, mới nhận ra mình đã quá khinh địch. Hắn tính quay ngựa đào thoát, thì từ dưới đất, phía sau lùm cây phóng ra một kẻ như độn thổ, ở phía trên cành cây cao nhảy xuống lại một người nữa, hai kẻ đồng thanh hô, “Cẩu tặc bán nước! Hãy đỡ lấy!”
Nhu xoay thương thành một đường tròn, một chiêu đỡ được đòn của cả kẻ trên cao lẫn kẻ dưới mặt đất. Hắn nhìn ra thì đó là Ô Di Hà và Ô Di Đạo.